Danh mục

Quyền tư pháp trong các chính thể hiện đại

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 246.72 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong khoa học từ trước đến nay, sự phân biệt cụ thể các mô hình chính thể chủ yếu dựa vào quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp mà ít thấy vai trò của quyền tư pháp. Người ta nhận thức rằng, dưới góc độ chính thể, không thấy sự khác nhau giữa tư pháp của hình thức nhà nước này với tư pháp của hình thức nhà nước khác. Điều này được lý giải là: dù nhà nước được tổ chức theo hình thức này hay hình thức khác, thì tư pháp với đặc tính...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quyền tư pháp trong các chính thể hiện đại Quyền tư pháp trong các chính thể hiện đại Trong khoa học từ trước đến nay, sự phân biệt cụ thể các mô hình chính thể chủ yếu dựa vào quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp mà ít thấy vai trò của quyền tư pháp. Người ta nhận thức rằng, dưới góc độ chính thể, không thấy sự khác nhau giữa tư pháp của hình thức nhà nước này với tư pháp của hình thức nhà nước khác. Điều này được lý giải là: dù nhà nước được tổ chức theo hình thức này hay hình thức khác, thì tư pháp với đặc tính của nó vẫn tồn tại độc lập 1 . Theo truyền thống, đối tượng tác động của quyền tư pháp là các tranh chấp trong nhân dân và tranh chấp giữa nhân dân với nhà nước. Nhưng cùng với xu hướng phát triển của dân chủ, toà án còn xem xét cả hành vi của các quan chức hành pháp, thậm chí là cả tổng thống trong chính thể cộng hoà tổng thống. Như vậy, tương quan quyền lực trong mô hình chính thể có sự quan hệ giữa tư pháp và hành pháp. Hơn nữa, quyền tư pháp còn xem xét cả hành vi của Quốc hội lập pháp. Cùng với việc mở rộng đối tượng xét xử của toà án đối với các hoạt động của Chính phủ và Quốc hội, quyền tư pháp không còn thuần tuý mang tính chất tố tụng mà thực tế trên phương diện nào đó trở thành một cành quyền lực ngày càng quan trọng, là một yếu tố không thể bỏ qua trong việc xem xét toàn diện mô hình chính thể ở các quốc gia hiện đại. Như vậy, việc xác định một mô hình chính thể không chỉ dựa vào quan hệ giữa lập pháp và hành pháp mà còn phải dựa vào quan hệ giữa tư pháp với các cành quyền lực đó. Trong mỗi một mô hình chính thể, quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp là khác nhau. Để làm sáng tỏ vấn đề này, dưới đây chúng tôi sẽ phân tích sự khác nhau của quyền tư pháp trong các chính thể hiện đại. Quyền tư pháp trong chính thể cộng hoà tổng thống Chính thể cộng hoà tổng thống, mà điển hình ở Mỹ, là một mô hình chính thể áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách cứng rắn. Biểu hiện của nguyên tắc này trong quan hệ lập pháp và hành pháp đã được nói đến nhiều trong các ấn phẩm viết về Hiến pháp. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp, nó ít được đề cập đến. Sự kìm chế và đối trọng không chỉ được thể hiện trong quan hệ lập pháp và hành pháp mà còn trong quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp. Hiến pháp của Mỹ quy định: 'Quyền tư pháp Hợp chủng quốc được trao cho một Toà án tối cao, và cho những toà án ở cấp thấp hơn mà Quốc hội có thể đôi khi quyết định và thiết lập' 2 . Toà án Mỹ là một thể chế độc lập hành xử quyền tư pháp theo đúng mô hình tam quyền phân lập mà Montesquieu đã đưa ra. Các chánh án do Tổng thống bổ nhiệm, Quốc hội phê chuẩn và có nhiệm kỳ suốt đời. Hiến pháp trực tiếp thành lập và phân định thẩm quyền của Toà án tối cao Mỹ. Quốc hội không thể thay đổi các quyền của Toà án tối cao được ấn định trong Hiến pháp. Hoạt động tài phán của Toà án không chịu sự can thiệp của lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp cũng tạo nên một cơ chế kìm chế và đối trọng quyền lực. Một mặt, Toà án tối cao Mỹ tự kìm chế mình trong phạm vi quyền tư pháp theo ranh giới của sự phân bố quyền lực để độc lập và không lẫn lộn sang địa hạt của quyền lập pháp và quyền hành pháp. Theo nguyên tắc tự kìm chế, Toà án không có quyền huỷ bỏ một đạo luật bất hợp hiến, cũng không xem xét tính hợp hiến của quá trình lập pháp của Quốc hội theo cách tham gia, góp ý kiến vào quá trình đó mà chỉ giải quyết những trường hợp cụ thể. Toà án không cụ thể hoá một đạo luật thành những chi tiết rộng quá phạm vi mà đạo luật đó có thể áp dụng. Nếu có một sự nghi ngờ nào đó về tính hợp hiến của một đạo luật, Toà án sẽ cố gắng làm sáng tỏ nó để tránh việc phải tuyên bố rằng đạo luật đó bất hợp hiến 3 . Đây là đặc điểm quan trọng của quan hệ tư pháp với lập pháp trong chính thể cộng hoà tổng thống. Mặt khác, Toà án cũng là một sự đối trọng đối với các cành quyền lực khác , tham gia một cách sống động chứ không phải như một quan sát viên thụ động của đời sống chính trị. Diễn biến của vụ Marbury và Madison: Vào năm 1803, trước khi người kế nhiệm là Thomas Jefferson nhậm chức, Tổng thống Jon Adams bổ nhiệm Marbury vào ghế thẩm phán liên bang. Nhưng quyết định bổ nhiệm vẫn không được Ngoại trưởng mới dưới thời Jefferson là Medison gửi cho Marbury. Marbury thỉnh cầu lên Toà án tối cao, đề nghị Toà chỉ thị cho Medison gửi quyết định trên. Luật thông qua năm 1789 (Luật về hệ thống toà án) cho phép Toà trong những trường hợp như vậy đưa ra những chỉ thị cần thiết. Nhưng Chánh án Toà án tối cao John Marshall tuyên bố: Toà án tối cao không có thẩm quyền đưa ra những chỉ thị như vậy. Ông giải thích: Hiến pháp Hoa Kỳ quy định rằng Toà án tối cao chỉ là cấp tòa phúc thẩm, trừ những trường hợp riêng biệt. Do đó, trong trường hợp này, Luật về hệ thống toà án 1789 cho phép thỉnh cầu thẳng lên Toà án tối cao là mâu thuẫn với quy định của Hiến pháp. Bởi vậy, Toà án tối cao không thể công nhận điều khoản đó của Luật có hiệu lực. (Nguồn: Réne David, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đ ương đại, Moskva, 1999- BBT) Đối với Quốc hội Hiến pháp Mỹ không quy định về thẩm quyền bảo hiến của To à án tối cao. Nhưng Toà án tối cao Mỹ đã tự nhận cho mình vai trò bảo hiến với một số suy luận xuất hiện lần đầu tiên trong vụ Marbury và Madison: 'Trong một vụ tranh chấp mà Toà án phải xem xét, nếu một bên đương sự đưa ra sự bất hợp hiến của đạo luật mà người ta muốn đem thi hành đối với y, thì Toà án phải kiểm tra xem sự bất hợp hiến đó thật hay không, và nếu có thật, Toà án phải từ chối áp dụng đạo luật bất hợp hiến' 4 . Lập luận của Toà án tối cao có giá trị đối với tất cả những nước theo mô hình bảo hiến của Mỹ. Như vậy thẩm quyền bảo hiến của Toà án Mỹ xuất phát từ nguyên tắc phân quyền trong việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Theo nguyên tắc này, quyền tư pháp phải được hoàn toàn tự do để giải thích Hiến pháp và sự giải thích đó có tính chất bắt buộc. Nếu không, ng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: