Danh mục

SÁCH TỐ VẤN - Thiên sáu mươi lăm

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 120.18 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoàng Đế hỏi: Bệnh có tiêu (ngọn), bản (gốc), thích có nghịch có tùng (thuận), nghĩa đó như thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Về phương pháp thích, phải phân biệt âm dương, trước sau cùng ứng, nghịch tùng đều hợp, tieuâ bản cùng thay đổi (1) [2]. Cho nên nói rằng: có khi ở tiêu, mà cầu nó ở tiêu, có khi ở bản, mà cầu nó ở bản, có khi ở bản mà cầu nó ở tiêu, có khi ở tiêu mà cầu nó ở bản [3]. Cho nên về phương pháp điều trị, có khi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH TỐ VẤN - Thiên sáu mươi lăm SÁCH TỐ VẤN Thiên sáu mươi lăm: TIÊU BẢN LUẬN Hoàng Đế hỏi: Bệnh có tiêu (ngọn), bản (gốc), thích có nghịch có tùng (thuận), nghĩađó như thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Về phương pháp thích, phải phân biệ t âm dương, trước sau cùng ứng,nghịch tùng đều hợp, tieuâ bản cùng thay đổi (1) [2]. Cho nên nói rằng: có khi ở tiêu, mà cầu nó ở tiêu, có khi ở bản, màcầu nó ở bản, có khi ở bản mà cầu nó ở tiêu, có khi ở tiêu mà cầu nó ở bản[3]. Cho nên về phương pháp điều trị, có khi lấy ở tiêu mà được, có khilấy ở bản mà được, có khi nghịch thủ mà được, có khi tùng thủ mà được [4]. Vậy nếu biết nghịch với tùng đó là chính pháp không còn gì hơn, biếtđược tiêu bản muôn làm muôn đứng, không biết tiêu bản, làm càn ra chi...(2).[5] Nói về cái đạo âm dương, nghịch tùng, và tiêu bản... mới nghe nhỏ,mà sau thật lớn, nói một điều mà biết được cái hại của trăm bệnh [6]. Ít mà là nhiều, nóâng mà là sâu, có thể nói một mà biết được trăm [7]. Do nóâng mà biết được sâu, xét gần mà biết được xa. Nói tiêu với bản,không nên tương phản [8]. Trị “phản” là ngh ịch, trị “đắc” là tùng (1). Trước mắc bệnh mà saunghịch, trị ở bản; trước ngh ịch mà sau mắc bệnh, trị ở bản 2 [9]. Trước hànmà sau sinh bệnh, tr ị ở bản, trước mắc bệnh mà sau sinh hàn, trị ở bản 3[10]. Trước nhiệt mà sau mắc bệnh, trị ở bản, trước nhiệt mà sau xin trungmãn, trị ở tiêu (4) [11]. Trước mắc bệnh mà sau tiết tả, trị ở bản, trước tiết tảmà sau thêm bệnh khác, tr ị ở bản, hãy đ iều hòa trước đã, rồi hãy trị bệnhkhác (5) [12]. Trước mắc bệnh mà sau sinh chứng phiền tâm, trị ở bản. Bởi ởtrong thân thể con ngườ i, có khách khí, lại có đồng khí (6) [13]. Tiểu, đạikhông lợi, trị ở tiểu, tiểu, đại lợi, tr ị ở bản (7) [14]. Bệnh phát sinh mà h ữudư, bản mà là tiêu, trước hãy trị bản, rồ i mới tr ị tiêu bệnh phát sinh mà bấttúc, tiêu mà là bản, trước hãy tr ị tiêu, rồi mới tr ị bản (8) [15]. Cẩn thận xétxem “gian” hay “Thậm”, lấy ý của mình để điều tr ị. Nếu “gian” thời tínhhành, “thậm” thời độc hành. Tỉ như: trước tiểu, đại không lợ i, mà rồi mớisinh bệnh khác, phả i tr ị ở bản (9) [16]. Bệnh có tương truyền, tỉ như Tâm bệnh, trước Tâm thống qua mộtngày thời phát chứng Khái, qua ba ngày Hiếp chi thống: qua năm ngày vítlấp không thông, thân đau mình nặng, qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết. MùaĐông chết về nửa đêm, mùa Hạ chết về đúng trưa (1). [17] Bệnh ở Phế, suyễn khái, qua ba ngày mà hiếp chi mãn và thống, lạiqua một ngày mà thân nặng mình đau, lại qua năm ngày mà trướng. Lại quamười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa hạchết về lúc mặt trời mọc (1). [18] Bệnh ở Can, đầu váng mắt hoa, Hiếp chi mãn, qua ba ngày, mìnhnặng, thân đau, qua năm ngày, sẽ phát trướng, lại qua ba ngày, yêu, tích vàthiếu phúc đau, ống chân nh ức, lại qua ba ngày không khỏi, sẽ chết. MùaĐông chết về lúc mặt trời lặn, mùa Hạ chết về sáng sớm (1) [19]. Bệnh ở Tỳ, thân đau, mình nặng. Qua một ngày mà Trướng, qua haingày, thiếu phúc, yêu, tích đau, xương ống chân nhức, qua ba ngày, bố i, lữvà cân thống, tiểu tiệ n bế, qua mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông,chết về lúc người đi ngủ yên; mùa Hạ, chết về lúc nửa buổ i (1) [20]. Bệnh ở Thận, Thiếu phúc và yêu, tích thống, xương ống chân, rức,qua ba ngày, bối, lữ, cân thống, tiểu tiện bế, qua ba ngày, phúc trướng, quaba ngày lưỡng hiếp chỉ thống, lại qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết MùaĐông, chết về lúc sáng rõ, mùa Hạ, chết về lúc tối đã lâu (1) [21]. Bệnh ở Vị, trướng mãn, qua năm ngày, thiếu phúc và yêu tích thống,xương ống chân nhức; qua ba ngày, bố i, lữ, cân thống, tiểu tiện bế, qua nămngày thân thể nặng nề, qua sáu ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa đông chết vềnửa đêm, mùa Hạ chết về xế chiều (1) [22]. Bệnh ở Bàng quang, tiểu tiện bế; qua 5 ngày, Thiếu phúc trướng, yêutích thống, xương ống chân nhức, qua một ngày, phúc trướng, lại qua mộtngày thân thể thống, lại qua hai ngày, không khỏi, sẽ chế t. Mùa Đông, chếtvề gà gáy, mùa Hạ, chết về chiều tà (1) [23]. Các bệnh ở trên do sự “thắng, khắc” mà truyền đều có cái trường hợpchóng chết, dù có phép thích cũng không sao cứu chữa được. Hoặctương truyền đến cách một Tàng, thời thôi, không truyền sang Tàng khácnữa, như thế mới có thể thích. Tỉ như: Tâm bệnh truyền Can, Can bệnhtruyền tỳ, đó là con đi lấ n mẹ... Đến Can Tàng, Tỳ Tàng thời thôi, không lạido sự “thắng, khắc” để truyền sang Tàng khác. Như thế mới có thể dùngphép thích. Lại tỉ như: Tâm bệnh truyền Tỳ, Phế bệnh truyền Thận, đó là mẹđi lấn con, nhờ được cái sinh khí của mẫu tàng, còn là chứng không đến nóãichết. Lại như Tâm bệnh truyền Thận, Phế bệnh truyền tâm, Can tàng truyềnPhế v.v... Đó là do nơi “sở bất thắng” mà lại, bệnh nhẹ, cũng có thể dùngphép thí ...

Tài liệu được xem nhiều: