Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các giải pháp khắc phục một số thiếu sót nhằm nâng cao kết quả việc học toán ở trung học phổ thông
Số trang: 31
Loại file: pdf
Dung lượng: 381.83 KB
Lượt xem: 3
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giúp học sinh bỏ qua rào cản về tâm lí trong quá trình học toán cũng như các môn học khác; giúp học sinh phát triển tư duy logic, hệ thống và khái quát hóa kiến thức một cách hiệu quả. Sáng kiến giúp học sinh tự tin trên con đường chiếm lĩnh kiến thức và học sinh có thể làm việc một cách chủ động, độc lập, tích cực, sáng tạo. Ngoài ra sáng kiến cũng giúp học sinh sẵn sàng thừa nhận các thiếu sót mà mình mắc phải và dễ dàng sửa chữa chúng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các giải pháp khắc phục một số thiếu sót nhằm nâng cao kết quả việc học toán ở trung học phổ thông SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO SÁNG KIẾNC¸c gi¶I ph¸p kh¾c phôc mét sè thiÕu sãt nh»m n©ngcao kÕt qu¶ viÖc häc to¸n ë trung häc phæ th«ng Ngêi viÕt s¸ng kiÕn: Vò ThÞ LuyÕn §¬n vÞ: Tæ To¸n - Tin Chøc vô : Gi¸o viªn Ninh Bình, tháng 9 năm 2014 0 I. Tên sáng kiến: Các giải pháp khắc phục một số thiếu sót nhằmnâng cao kết quả việc học toán ở trung học phổ thông. II. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Vũ Thị Luyến Chức vụ: Giáo viên Học vị: Cử nhân khoa học – Chuyên ngành Toán Tin ứng dụng Địa chỉ: Trường THPT Trần Hưng Đạo – Thành Phố Ninh Bình Mail: thienluyen80@yahoo.com Điện thoại: 0918603399 III. Nội dung sáng kiến 1. Thực trạng của hoạt động toán học của học sinh phổ thông hiệnnay Ở trường phổ thông, dạy toán là hoạt động toán học. Đối với học sinh, cóthể xem giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học. Dạy học giảitoán có vai trò đặc biệt trong dạy học toán. Các bài toán là phương tiện có hiệuquả không thể thay thế được trong việc giúp học sinh nắm vững tri thức, pháttriển tư duy, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy chất lượng học toán của học sinh có lúc, cóchỗ còn chưa tốt, biểu hiện qua việc năng lực học toán của học sinh còn hạn chếdo học sinh còn mắc nhiều thiếu sót. Những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót của học sinh đó là: a. Tâm lí sợ học toán: Trong suy nghĩ của nhiều học sinh, toán học là môn học rất khó, khôkhan, cứng nhắc, do đó các em e ngại, không thích học toán. Hơn nữa, một bộphận không nhỏ giáo viên thường áp đặt ý kiến chủ quan của mình đối với họcsinh. Nhiều giáo viên chưa khuyến khích khả năng tư duy độc lâp, khả năngphản biện của học sinh. Nhiều giáo viên khó chấp nhận và khó nhìn ra sai lầmcủa chính mình. Do vậy không sẵn sàng chấp nhận đối thoại với học sinh. b. Ngôn ngữ diễn đạt yếu và kỹ năng tính toán hạn chế: Khả năng diễn đạt được coi là khả năng rất quan trọng của con người. Córất nhiều học sinh giỏi về kiến thức nhưng khả năng diễn đạt yếu dẫn đến ngườiđọc không hiểu hết được vấn đề. Nguy hiểm hơn nữa, đó là học sinh diễn đạt tuỳtiện, không chọn lọc câu, từ, kí hiệu khi diễn đạt, thường viết theo cảm tính,không suy nghĩ đến mức độ đúng, sai của vấn đề. Trong quá trình giải toán thì máy tính điện tử là một công cụ hỗ trợ rấtmạnh và rất cần thiết đối với học sinh. Máy tính điện tử giúp học sinh tiết kiệmđược thời gian tính toán, kiểm tra được các kết quả khi cần thiết, giải được nhiềubài toán phức tạp. Tuy nhiên, một trong những lí do làm giảm khả năng tínhtoán của học sinh cũng chính là máy tính điện tử. Hiện nay trong giờ học, học 1sinh quá lạm dụng máy tính điện tử (MTĐT), không chịu rèn luyện tư duy mộtcách thường xuyên và thường chủ quan khi làm bài, do đó khi không có MTĐTcác em dễ bị sai trong tính toán. Ví dụ như: Khi học sinh lên bảng giải phương trình: x2 – 4x + 3 = 0, cácem không quan tâm đến khả năng nhẩm nghiệm (do a + b + c = 0), mà vội vàngdùng MTĐT để bấm ra nghiệm. Còn có học sinh lớp 11 chỉ thực hiện phép tính“26 -14” cũng phải mượn MTĐT để ra kết quả. c. Không biết cách sử dụng các mệnh đề trong giải toán (sử dụng cácphép suy luận sai) và không nắm vững lí thuyết: Đây là những thiếu sót thường hay xảy ra đối với học sinh. Học sinhkhông biết cách sử dụng các mệnh đề và không biết cách áp dụng lí thuyết vàocác tình huống cụ thể.Ví dụ như: Với sách giáo khoa ở phổ thông chỉ sử dụng có kí hiệu để viếtgiới hạn vô hạn của dãy số. Nên tuỳ vào từng trường hợp mà kí hiệu này, cóthể được hiểu theo các cách khác nhau như + hoặc - , hay hỗn hợp cả hai+ và - ; chẳng hạn xét: Với lim n2 = , kí hiệu được hiểu là + Với lim (- n) = , kí hiệu được hiểu là - Với lim (-1)n n = , kí hiệu được hiểu là + và - Vì vậy, nên khi xét giới hạn vô cực của dãy số phải xét cụ thể chỉ rõ ràng, giớihạn + hay giới hạn - , tức là lim u n = + hoặc lim u n = - n n Học sinh áp dụng cách tư duy theo lối mòn như: “Nếu a b và c b thìa // c”; hay “Nếu A, B, C, D cách đều điểm O cố định thì A, B, C, D nằm trênmột đường tròn” hoặc “Bất phương trình ax2 + bx + c > 0 vô nghiệm 0 ” Hay học sinh thường sử dụng các mệnh đề sai đó là: f(x) g(x) f2(x) g2(x) 2 f (x) = g(x) f (x ) = g (x) f ( x) =0 f(x) = 0 g ( x) a b => ac > bd c d f ( x) g ( x) f ( x) g ( x) f ( x) h ( x ) f ( x ) h ( x ). g ( x ) g ( x) g ( x) 0 f ( x) g ( x) 0 f ( x) 0 2 f ( x ) h( x ) g ( x ) h( x ) f ( x ) g ( x ) … Trong khi đó giáo viên thì không thường xuyên sửa chữa các thiếu sótnày cho học sinh, giáo viên chỉ sửa chữa khi bắt gặp vào bài học sinh giải saitrong giờ bài tập, còn không thì bỏ qua. Thông thường trong các bài dạy, giáoviên dạy xong phần lí thuyết, cho học sinh vận dụng bài tập theo các bước màgiáo viên sắp xếp trước, nên rất khó phát hiện ra các thiếu sót từ phía học sinh. d. Coi nhẹ việc tự học, tự kiểm tra, tự đánh giá: Đa số học sinh hiện nay có tâm lí dựa dẫm, lệ thuộc vào giáo viê ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các giải pháp khắc phục một số thiếu sót nhằm nâng cao kết quả việc học toán ở trung học phổ thông SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO SÁNG KIẾNC¸c gi¶I ph¸p kh¾c phôc mét sè thiÕu sãt nh»m n©ngcao kÕt qu¶ viÖc häc to¸n ë trung häc phæ th«ng Ngêi viÕt s¸ng kiÕn: Vò ThÞ LuyÕn §¬n vÞ: Tæ To¸n - Tin Chøc vô : Gi¸o viªn Ninh Bình, tháng 9 năm 2014 0 I. Tên sáng kiến: Các giải pháp khắc phục một số thiếu sót nhằmnâng cao kết quả việc học toán ở trung học phổ thông. II. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Vũ Thị Luyến Chức vụ: Giáo viên Học vị: Cử nhân khoa học – Chuyên ngành Toán Tin ứng dụng Địa chỉ: Trường THPT Trần Hưng Đạo – Thành Phố Ninh Bình Mail: thienluyen80@yahoo.com Điện thoại: 0918603399 III. Nội dung sáng kiến 1. Thực trạng của hoạt động toán học của học sinh phổ thông hiệnnay Ở trường phổ thông, dạy toán là hoạt động toán học. Đối với học sinh, cóthể xem giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học. Dạy học giảitoán có vai trò đặc biệt trong dạy học toán. Các bài toán là phương tiện có hiệuquả không thể thay thế được trong việc giúp học sinh nắm vững tri thức, pháttriển tư duy, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy chất lượng học toán của học sinh có lúc, cóchỗ còn chưa tốt, biểu hiện qua việc năng lực học toán của học sinh còn hạn chếdo học sinh còn mắc nhiều thiếu sót. Những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót của học sinh đó là: a. Tâm lí sợ học toán: Trong suy nghĩ của nhiều học sinh, toán học là môn học rất khó, khôkhan, cứng nhắc, do đó các em e ngại, không thích học toán. Hơn nữa, một bộphận không nhỏ giáo viên thường áp đặt ý kiến chủ quan của mình đối với họcsinh. Nhiều giáo viên chưa khuyến khích khả năng tư duy độc lâp, khả năngphản biện của học sinh. Nhiều giáo viên khó chấp nhận và khó nhìn ra sai lầmcủa chính mình. Do vậy không sẵn sàng chấp nhận đối thoại với học sinh. b. Ngôn ngữ diễn đạt yếu và kỹ năng tính toán hạn chế: Khả năng diễn đạt được coi là khả năng rất quan trọng của con người. Córất nhiều học sinh giỏi về kiến thức nhưng khả năng diễn đạt yếu dẫn đến ngườiđọc không hiểu hết được vấn đề. Nguy hiểm hơn nữa, đó là học sinh diễn đạt tuỳtiện, không chọn lọc câu, từ, kí hiệu khi diễn đạt, thường viết theo cảm tính,không suy nghĩ đến mức độ đúng, sai của vấn đề. Trong quá trình giải toán thì máy tính điện tử là một công cụ hỗ trợ rấtmạnh và rất cần thiết đối với học sinh. Máy tính điện tử giúp học sinh tiết kiệmđược thời gian tính toán, kiểm tra được các kết quả khi cần thiết, giải được nhiềubài toán phức tạp. Tuy nhiên, một trong những lí do làm giảm khả năng tínhtoán của học sinh cũng chính là máy tính điện tử. Hiện nay trong giờ học, học 1sinh quá lạm dụng máy tính điện tử (MTĐT), không chịu rèn luyện tư duy mộtcách thường xuyên và thường chủ quan khi làm bài, do đó khi không có MTĐTcác em dễ bị sai trong tính toán. Ví dụ như: Khi học sinh lên bảng giải phương trình: x2 – 4x + 3 = 0, cácem không quan tâm đến khả năng nhẩm nghiệm (do a + b + c = 0), mà vội vàngdùng MTĐT để bấm ra nghiệm. Còn có học sinh lớp 11 chỉ thực hiện phép tính“26 -14” cũng phải mượn MTĐT để ra kết quả. c. Không biết cách sử dụng các mệnh đề trong giải toán (sử dụng cácphép suy luận sai) và không nắm vững lí thuyết: Đây là những thiếu sót thường hay xảy ra đối với học sinh. Học sinhkhông biết cách sử dụng các mệnh đề và không biết cách áp dụng lí thuyết vàocác tình huống cụ thể.Ví dụ như: Với sách giáo khoa ở phổ thông chỉ sử dụng có kí hiệu để viếtgiới hạn vô hạn của dãy số. Nên tuỳ vào từng trường hợp mà kí hiệu này, cóthể được hiểu theo các cách khác nhau như + hoặc - , hay hỗn hợp cả hai+ và - ; chẳng hạn xét: Với lim n2 = , kí hiệu được hiểu là + Với lim (- n) = , kí hiệu được hiểu là - Với lim (-1)n n = , kí hiệu được hiểu là + và - Vì vậy, nên khi xét giới hạn vô cực của dãy số phải xét cụ thể chỉ rõ ràng, giớihạn + hay giới hạn - , tức là lim u n = + hoặc lim u n = - n n Học sinh áp dụng cách tư duy theo lối mòn như: “Nếu a b và c b thìa // c”; hay “Nếu A, B, C, D cách đều điểm O cố định thì A, B, C, D nằm trênmột đường tròn” hoặc “Bất phương trình ax2 + bx + c > 0 vô nghiệm 0 ” Hay học sinh thường sử dụng các mệnh đề sai đó là: f(x) g(x) f2(x) g2(x) 2 f (x) = g(x) f (x ) = g (x) f ( x) =0 f(x) = 0 g ( x) a b => ac > bd c d f ( x) g ( x) f ( x) g ( x) f ( x) h ( x ) f ( x ) h ( x ). g ( x ) g ( x) g ( x) 0 f ( x) g ( x) 0 f ( x) 0 2 f ( x ) h( x ) g ( x ) h( x ) f ( x ) g ( x ) … Trong khi đó giáo viên thì không thường xuyên sửa chữa các thiếu sótnày cho học sinh, giáo viên chỉ sửa chữa khi bắt gặp vào bài học sinh giải saitrong giờ bài tập, còn không thì bỏ qua. Thông thường trong các bài dạy, giáoviên dạy xong phần lí thuyết, cho học sinh vận dụng bài tập theo các bước màgiáo viên sắp xếp trước, nên rất khó phát hiện ra các thiếu sót từ phía học sinh. d. Coi nhẹ việc tự học, tự kiểm tra, tự đánh giá: Đa số học sinh hiện nay có tâm lí dựa dẫm, lệ thuộc vào giáo viê ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm THPT Sáng kiến kinh nghiệm môn Toán học Nâng cao kết quả việc học toán Đổi mới phương pháp dạy họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5
18 trang 1994 20 0 -
47 trang 917 6 0
-
65 trang 746 9 0
-
7 trang 585 7 0
-
16 trang 520 3 0
-
26 trang 474 0 0
-
23 trang 472 0 0
-
29 trang 470 0 0
-
37 trang 469 0 0
-
65 trang 450 3 0