Danh mục

Sáng kiến kinh nghiệm triết học cổ đại – hệ thống không chính phái

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 245.31 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

C. HỆ THỐNG KHÔNG CHÍNH THỐNG 1. Trường phái Lokayata Trường phái Lokayata xuất hiện khá sớm trong phong trào đấu tranh chống lại truyền thống Vêđa và chế độ đẳng cấp ở Đông An. Tương truyền rằng, Brihaspati là người sáng lập ra trường phái Lokayata đầy tính duy vật, vô thần, khoái lạc này. Phái Lokayata cho rằng, vạn vật (kể cả con người) đều được tạo thành từ 4 yếu tố là đất, nước, lửa, gió (Tứ đại). ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sáng kiến kinh nghiệm triết học cổ đại – hệ thống không chính phái Sáng kiến kinh nghiệm triết học cổ đại – hệ thống không chính pháiC. HỆ THỐNG KHÔNG CHÍNH THỐNG1. Trường phái LokayataTrường phái Lokayata xuất hiện khá sớm trong phong trào đấu tranh chống lạitruyền thống Vêđa và chế độ đẳng cấp ở Đông An. Tương truyền rằng, Brihaspatilà người sáng lập ra trường phái Lokayata đầy tính duy vật, vô thần, khoái lạc này.Phái Lokayata cho rằng, vạn vật (kể cả con người) đều được tạo thành từ 4 yếu tốlà đất, nước, lửa, gió (Tứ đại). Tính đa dạng của vạn vật là do sự kết hợp khácnhau của các yếu tố ấy mà thành. Còn linh hồn (ý thức) chỉ là một thuộc tính củacơ thể, do thể xác (vật chất) sinh ra, vì vậy, nó khả tử. Hơn nữa, phái Lokayata phủnhận cả thuyết luân hồi, nghiệp báo; chế giễu quan niệm giải thoát…; đồng thờikhẳng định con người chỉ sống có một lần trên thế gian; vì vậy, con người cầnphải sống cho chính cuộc đời này chứ không phải cho cuộc đời nào khác.Phái Lokayata coi cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, họphủ nhận tính xác thực của nhận thức suy lý gián tiếp. Đặc biệt, họ l ên án mạnhmẽ những suy luận trong Vêđa hay những kết luận được rút ra từ Vêđa. Việc phủnhận thần thánh, thiên đường, điạ ngục và cuộc sống sau khi chết… đã đưa pháinày đến với những quan niệm đạo đức khoái lạc, để từ đó, họ chủ tr ương giảiphóng con người ra khỏi những kìm chế ham muốn, kêu gọi con người nên tậnhưởng đầy đủ những gì mà mình mong muốn thỏa mãn.Do xa lạ với truyền thống tôn giáo và chế độ đẳng cấp của Ấn Độ mà pháiLokayata bị công kích dữ dội, nó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.2. Trường phái JainaTrường phái Jaina (Kỳ na giáo) là một trường phái triết học – tôn giáo xuất hiệnvào khoảng thế kỷ V TCN. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Jaina là mộtngười đàn ông xuất thân từ đẳng cấp thứ hai trong xã hội, sinh ra ở ngoại thànhVaixali thuộc tỉnh Biha ngày nay, sống cùng thời với Phật Thích Ca. Năm 30 tuổi,do bị chấn động bởi sự kiện cha mẹ nhịn ăn tự tử vì lòng tin tôn giáo mà ông đã từbỏ tất cả (gia đình, tiện nghi, quần áo…) đi lang thang tu khổ hạnh khắp miền TâyBengan. Sau khi đắc đạo, ông được người đời kính phục, đặt biệt hiệu là Mahavira(Đại anh hùng) và được tôn làm Jina (Người khắc phục được mọi ham muốn).Ông đã lập ra đạo Jaina.Tư tưởng triết học cơ bản của đạo Jaina là thuyết về cái tương đối. Thuyết này cốdung hòa quan niệm về thực thể bất biến (trong Upanisát) với quan niệm vôthường (trong Phật giáo) và cho rằng, thực thể đầu tiên là bất biến, nhưng vạn vật– các dạng tồn tại cụ thể của nó thì biến chuyển không ngừng. Thế giới, vạn vật làsự thống nhất của cái bất biến và cái biến đổi. Thực thể có hai trạng thái cơ bản làjiva (sống) và ajiva (không sống). Jiva bao gồm quỷ, thần, người, chim, thú, cây,cỏ… mang lý trí, có linh hồn. Ajiva bao gồm không gian, thời gian, vận động, vậtchất… Jiva và ajiva luôn liên kết tác động lẫn nhau. Phái Jaina coi linh hồn là lựclượng toàn năng và tồn tại đa dạng, nhưng năng lực của chúng bị hạn chế bởi thânxác mà nó liên kết. Muốn giải phóng và phát huy sức mạnh của linh hồn cần phảitu luyện một cách máy móc theo giới luật của đạo Jaina; cụ thể là thực hành: bấtsát sinh, bất bạo lực, không hại sinh linh, sống khổ hạnh, không của ri êng, ănchay trường, không dùng vải che thân…3. Trường phái Phật giáoPhật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổđại. Nó ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trênthế giới, trong đó có Việt Nam.a) Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáoTheo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Xítđácta Gôtama (SiddharthaGautama, 563-483 TCN), con vua Sutđôđana (Suddhodana), thuộc bộ tộc Thíchca (Shakya) của nước Capilavaxtu, – một nước nhỏ ở miền Đông – Bắc Ấn Độ,nằm dưới chân dãy Himalaia, nay thuộc đất Nêpan.Năm 29 tuổi, Thái tử Xítđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt nhữngnỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm, theo các bậc chân tu khổ hạnh củatruyền thống tu luyện Ấn Độ mà Ngài vẫn chưa tìm ra chân lý. Cuối cùng, Ngàilang thang đến cánh rừng thiêng Uravela (Gaya, thuộc tỉnh Bihar, miền Bắc ẤnĐộ) và ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm, Ngài phát hiệnra bản tính vô ngã, vô thường của thế giới. Ngài tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đềthêm 49 ngày nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất củatồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau. Ngài cho rằng mình đã tìm được con đườngcứu vớt chúng sinh. Từ đó trở đi, người ta gọi Ngài là Phật (Buddha), nghĩa làngười đã giác ngộ – thấu hiểu chân lý. Sau khi thành Phật, Ngài xây dựng Giáođoàn Phật giáo để rao giảng giáo lý của mình và được đệ tử tôn xưng là Thích CaMâuni, nghĩa là bậc hiền triết của dòng tộc Thích Ca.Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc An Độ. Đểchấn chỉnh giáo lý, giáo luật và tổ chức, từ thế kỷ V-III T ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: