SKKN: Một số giải pháp của bản thân nhằm nâng cao chất lượng cho bài văn
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 241.27 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sáng kiến “Một số giải pháp của bản thân nhằm nâng cao chất lượng cho bài văn” đưa ra một số giải pháp mà bản thân tác giả thấy tự nên làm để nâng cao chất lượng bài làm cho học sinhlớp 8 trường THCS Xuân Hòa năm học 2007-2008. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến trên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SKKN: Một số giải pháp của bản thân nhằm nâng cao chất lượng cho bài văn SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMMỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA BẢNTHÂN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO BÀI VĂN A- Đặt vấn đề :I .Lí do chọn đề tài :Hiện nay học sinh có xu hướng xem nhẹ học những môn xã hội nói chung môn ngữ vănnói riêng . Cũng chính vì thế mà chất lượng học văn có chiều hứng giảm sút . Học sinhkhông say mê yêu thích môn học . Mà say mê vào những môn mang xu hướng thời cuộcnhư tiếng anh, điện tử , tin học ... có vẻ như không còn hứng thú với những vần thơ lụcbát truyền thống , những vâu tục ngữ ca dao dễ thuộc dễ hiểu đi sâu vào lòngngười.Chính vì thế lại càng đòi hỏi người giáo viên đặc biệt là giáo viên ngữ văn phảitạo được giờ học thu hút học sinh,làm cho học sinh mong chờ đến giờ học, điều nàykhông phải dễ nhất là trong thời kỳ hiện nay nền kinh tế thị trường đã chi phối khá nhiềuđến đời sống của người giáo viên . Đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghềnghiệp. Tìm ra được những thuận lợi –khó khăn trong giờ học để kịp thời uốn nắn và sửasai cho học sinh .Bằng khả năng của mình để đẩy cao chất lượng bài làm văn cho họcsinh. Cũng chính vì những thực trạng hiện nay của học sinh lớp 8 trường THCS XuanHoa nên tôi mạnh dạn đưa ra “ một số giải pháp của bản thân nhằm nâng cao chấtlượng cho bài văn”. II. Thực trạng: 1. Thuận lợi:- Trong năm học này tôi đang trực tiếp giảng dạy ngữ văn của 3 lớp 8 .Thì tôi thấy học sinh của ba lớp có khả năng tiếp thu bài không đồng đều. Hai lớp có khả năng lĩnh hội tri thức tương đương nhau, số học sinh chiếm tỉ lệ khá ở các môn chiém tỉ lệ cao, hcọ lực trung bình khá trở lên nhiều. Các em có tinh thần học tập ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi lên lớp.- Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp. khi nghỉ các đồng chí đã dạy thay cho tôi không để học sinh nghỉ tiết.- Hiện nay tài liệu tham khảo nhiều giúp ích rất nhiều trong công tác giảng dạy của giáo viên. các lớp học nâng cao trình độ tạo điều kiện để giáo tham gia hcọ tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ theo kịp với xu thế đổi mới hiện nay. 2. Khó khăn:- Học sinh lớp 8a1 có khả năng lĩnh hội tri thức kém so với hai lớp 8a2-8a3.Khi tổ chức lớp học thì học sinh nam thường không chú ý hay làm ồn gay ức chế cho giáo viên. lớp 8a2 tỉ lệ học sinh chuẩn bị bài cũ, hcọ bài khi đến lớp không đày đủ ảnh hưởng rất lớn đến giờ học.-- Môn ngữ văn các trang thiết bị như tranh ảnh, một số tác phẩm có đoạn trích được học thư viện không có, do đó giáo viên học sinh muốn tham khảo không có nên rất khó khăn học sinh khó hình dung được đoạn trích tác phẩm.- Học sinh hiện nay có xu thế xem nhẹ các môn xã hội trong đó có môn ngữ văn dẫn đến chất lượng học tập không cao. 3. Kết quả thực trạng: -Trong kỳ thi khảo sát chất lượng đầu năm tỉ lệ học sinh yếu kém môn ngữ văn khá cao. - Học sinh đạt kết quả: khá: 3 em -> 3.1% trung bình: 42 em -> 44.6% Yếu- kém : 49 em -> 52.3% B. Giải quyết vấn đề: Phần I : Thực tiễn giảng dạyQua thực tế giảng dạy và học tập, nghiên cứu, tôi nhận thức dạy học văn đòi hỏi chúngta phải nghiên cứu tìm hiểu, tiếp thu nó bằng cả trí óc lẫn tâm hồn. có khi cảm thụ đượcnhưng lại trình bày sự hiểu biết của mình không đạt yêu cầu. một bài tập làm văn đòi hỏikết quả của sự tổng hợp các kiến thức về lí thuyết làm văn, kiến thức văn hoá, kiến thứcxã hội, kĩ năng diễn đạt. Để biến những kiến thức đó của mình thì học sinh đó phải cómột thời gian miệt mài rèn luyện, đặc biệt phải ham thích học văn. Thế nhưng kết quảhiện nay cho thấy chất lượng bài làm văn của học sinh chưa cao. Qua theo dõi các bàiviết của học sinh kết quả chưa như mong muốn. Thực tế như sau:1. Bài viết số 1: Đề bài: Kể lại kỉ niệm ngày đầu tiên đi học.Yêu cầu: - xác định ngôi kể thứ 1 – thứ3.- xác địng trình tự kể: + Theo thời gian - không gian. + Theo diễn biến sự việc. + Theo diễn biến của tâm trạng.- xác định cấu trúc của văn bản định phân đoạn ( số lượng đoạn văn trong mỗi phần ) và cách trình bày các đoạn.- xác định 4 bước tạo lập văn bản, chú trọng bước lập đề cương. Loại giỏi Loại Khá Trung bình Yếu - kém Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 8A1 34 1 2.9 8 23.5 14 41.2 11 32.4 8A2 29 0 0 3 10.3 10 34.5 16 55.2 8A3 31 0 0 10 32.3 11 35.5 10 32.2- Sau khi thu bài tôi đã chấm bài sữa lỗi cho học sinh và tìm ra nguyên nhân tại sao bài làm của học sinh lại chưa cao như vậy: đó là do thời gian trên lớp có hạn, kiến thức học sinh lĩnh hội chưa đầy đủ chưa sát từng đối tượng học sinh. chư\a phân loại được đối tượng học sinh để có hình thức phương pháp giảng dạy cho phù hợp.- Học sinh chưa thực sự quan tâm đến môn học, về nhà học bài ôn bài chưa đầy đủ. Không chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chưa đọc kĩ đề dẫn đến không hiểu đề, vốn từ nghèo nàn do đọc ít, tài liệu tham khảo thiếu thốn, trình độ nhận thức hạn hẹp.- Trong quá trình giảng dạy số hcọ sinh bị diểm kém là do thiếu tập trung, khônng chịu học bài, đọc bài. Trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu mà tôi nhận thấy ở bài viết số 1. dẫn đến tỉ lệ yếu kém nhiều. Điểm khá giỏi không có hoặc nếu có thì tỉ lệ tương đối thấp.2. Đến bài viết số 3: Đề bài : Hãy kể về một con vật đáng nhớ mà em yêu thích. Yêu cầu: Học sinh phải: Xác định sự việc chính và các chi tiết. Xác định nhân vật chính ( người kể và con vật nuôi ) và một số con vật khác.- Các yếu tố miêu tả biểu cảm xen kẽ.- Thời gian làm bài là 90 phút. sau khi chấm bài tỉ lệ như sau:Lớp sĩ số Loại ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SKKN: Một số giải pháp của bản thân nhằm nâng cao chất lượng cho bài văn SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMMỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA BẢNTHÂN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO BÀI VĂN A- Đặt vấn đề :I .Lí do chọn đề tài :Hiện nay học sinh có xu hướng xem nhẹ học những môn xã hội nói chung môn ngữ vănnói riêng . Cũng chính vì thế mà chất lượng học văn có chiều hứng giảm sút . Học sinhkhông say mê yêu thích môn học . Mà say mê vào những môn mang xu hướng thời cuộcnhư tiếng anh, điện tử , tin học ... có vẻ như không còn hứng thú với những vần thơ lụcbát truyền thống , những vâu tục ngữ ca dao dễ thuộc dễ hiểu đi sâu vào lòngngười.Chính vì thế lại càng đòi hỏi người giáo viên đặc biệt là giáo viên ngữ văn phảitạo được giờ học thu hút học sinh,làm cho học sinh mong chờ đến giờ học, điều nàykhông phải dễ nhất là trong thời kỳ hiện nay nền kinh tế thị trường đã chi phối khá nhiềuđến đời sống của người giáo viên . Đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghềnghiệp. Tìm ra được những thuận lợi –khó khăn trong giờ học để kịp thời uốn nắn và sửasai cho học sinh .Bằng khả năng của mình để đẩy cao chất lượng bài làm văn cho họcsinh. Cũng chính vì những thực trạng hiện nay của học sinh lớp 8 trường THCS XuanHoa nên tôi mạnh dạn đưa ra “ một số giải pháp của bản thân nhằm nâng cao chấtlượng cho bài văn”. II. Thực trạng: 1. Thuận lợi:- Trong năm học này tôi đang trực tiếp giảng dạy ngữ văn của 3 lớp 8 .Thì tôi thấy học sinh của ba lớp có khả năng tiếp thu bài không đồng đều. Hai lớp có khả năng lĩnh hội tri thức tương đương nhau, số học sinh chiếm tỉ lệ khá ở các môn chiém tỉ lệ cao, hcọ lực trung bình khá trở lên nhiều. Các em có tinh thần học tập ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi lên lớp.- Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp. khi nghỉ các đồng chí đã dạy thay cho tôi không để học sinh nghỉ tiết.- Hiện nay tài liệu tham khảo nhiều giúp ích rất nhiều trong công tác giảng dạy của giáo viên. các lớp học nâng cao trình độ tạo điều kiện để giáo tham gia hcọ tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ theo kịp với xu thế đổi mới hiện nay. 2. Khó khăn:- Học sinh lớp 8a1 có khả năng lĩnh hội tri thức kém so với hai lớp 8a2-8a3.Khi tổ chức lớp học thì học sinh nam thường không chú ý hay làm ồn gay ức chế cho giáo viên. lớp 8a2 tỉ lệ học sinh chuẩn bị bài cũ, hcọ bài khi đến lớp không đày đủ ảnh hưởng rất lớn đến giờ học.-- Môn ngữ văn các trang thiết bị như tranh ảnh, một số tác phẩm có đoạn trích được học thư viện không có, do đó giáo viên học sinh muốn tham khảo không có nên rất khó khăn học sinh khó hình dung được đoạn trích tác phẩm.- Học sinh hiện nay có xu thế xem nhẹ các môn xã hội trong đó có môn ngữ văn dẫn đến chất lượng học tập không cao. 3. Kết quả thực trạng: -Trong kỳ thi khảo sát chất lượng đầu năm tỉ lệ học sinh yếu kém môn ngữ văn khá cao. - Học sinh đạt kết quả: khá: 3 em -> 3.1% trung bình: 42 em -> 44.6% Yếu- kém : 49 em -> 52.3% B. Giải quyết vấn đề: Phần I : Thực tiễn giảng dạyQua thực tế giảng dạy và học tập, nghiên cứu, tôi nhận thức dạy học văn đòi hỏi chúngta phải nghiên cứu tìm hiểu, tiếp thu nó bằng cả trí óc lẫn tâm hồn. có khi cảm thụ đượcnhưng lại trình bày sự hiểu biết của mình không đạt yêu cầu. một bài tập làm văn đòi hỏikết quả của sự tổng hợp các kiến thức về lí thuyết làm văn, kiến thức văn hoá, kiến thứcxã hội, kĩ năng diễn đạt. Để biến những kiến thức đó của mình thì học sinh đó phải cómột thời gian miệt mài rèn luyện, đặc biệt phải ham thích học văn. Thế nhưng kết quảhiện nay cho thấy chất lượng bài làm văn của học sinh chưa cao. Qua theo dõi các bàiviết của học sinh kết quả chưa như mong muốn. Thực tế như sau:1. Bài viết số 1: Đề bài: Kể lại kỉ niệm ngày đầu tiên đi học.Yêu cầu: - xác định ngôi kể thứ 1 – thứ3.- xác địng trình tự kể: + Theo thời gian - không gian. + Theo diễn biến sự việc. + Theo diễn biến của tâm trạng.- xác định cấu trúc của văn bản định phân đoạn ( số lượng đoạn văn trong mỗi phần ) và cách trình bày các đoạn.- xác định 4 bước tạo lập văn bản, chú trọng bước lập đề cương. Loại giỏi Loại Khá Trung bình Yếu - kém Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 8A1 34 1 2.9 8 23.5 14 41.2 11 32.4 8A2 29 0 0 3 10.3 10 34.5 16 55.2 8A3 31 0 0 10 32.3 11 35.5 10 32.2- Sau khi thu bài tôi đã chấm bài sữa lỗi cho học sinh và tìm ra nguyên nhân tại sao bài làm của học sinh lại chưa cao như vậy: đó là do thời gian trên lớp có hạn, kiến thức học sinh lĩnh hội chưa đầy đủ chưa sát từng đối tượng học sinh. chư\a phân loại được đối tượng học sinh để có hình thức phương pháp giảng dạy cho phù hợp.- Học sinh chưa thực sự quan tâm đến môn học, về nhà học bài ôn bài chưa đầy đủ. Không chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chưa đọc kĩ đề dẫn đến không hiểu đề, vốn từ nghèo nàn do đọc ít, tài liệu tham khảo thiếu thốn, trình độ nhận thức hạn hẹp.- Trong quá trình giảng dạy số hcọ sinh bị diểm kém là do thiếu tập trung, khônng chịu học bài, đọc bài. Trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu mà tôi nhận thấy ở bài viết số 1. dẫn đến tỉ lệ yếu kém nhiều. Điểm khá giỏi không có hoặc nếu có thì tỉ lệ tương đối thấp.2. Đến bài viết số 3: Đề bài : Hãy kể về một con vật đáng nhớ mà em yêu thích. Yêu cầu: Học sinh phải: Xác định sự việc chính và các chi tiết. Xác định nhân vật chính ( người kể và con vật nuôi ) và một số con vật khác.- Các yếu tố miêu tả biểu cảm xen kẽ.- Thời gian làm bài là 90 phút. sau khi chấm bài tỉ lệ như sau:Lớp sĩ số Loại ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nâng cao chất lượng bài làm văn Giúp học tốt môn Ngữ Văn Kinh nghiệm giảng dạy học sinh Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ Văn Sáng kiến kinh nghiệm lớp 8 Sáng kiến kinh nghiệmGợi ý tài liệu liên quan:
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5
18 trang 1976 20 0 -
47 trang 905 6 0
-
65 trang 739 9 0
-
7 trang 580 7 0
-
16 trang 506 3 0
-
23 trang 470 0 0
-
37 trang 467 0 0
-
29 trang 467 0 0
-
26 trang 467 0 0
-
65 trang 436 3 0