So sánh, đánh giá các mô hình thống kê hiệu chỉnh dự báo lượng mưa sử dụng các chỉ số hoàn lưu và nhiệt động lực khí quyển
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 575.46 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu đánh giá và so sánh chất lượng hiệu chỉnh dự báo của các mô hình thống kê sử dụng các chỉ số hoàn lưu khí quyển với các yếu tố dự báo là các loại số liệu lượng mưa khác nhau, bao gồm: mưa quan trắc, mưa tái phân tích ERA và mưa ước lượng từ vệ tinh GPCP.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
So sánh, đánh giá các mô hình thống kê hiệu chỉnh dự báo lượng mưa sử dụng các chỉ số hoàn lưu và nhiệt động lực khí quyển BÀI BÁO KHOA HỌC SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH THỐNG KÊ HIỆU CHỈNH DỰ BÁO LƯỢNG MƯA SỬ DỤNG CÁC CHỈ SỐ HOÀN LƯU VÀ NHIỆT ĐỘNG LỰC KHÍ QUYỂN Hoàng Phúc Lâm1, Nguyễn Đức Nam2, Lê Minh Đức3 Tóm tắt: Trong bài báo này, nhóm nghiên cứu đánh giá và so sánh chất lượng hiệu chỉnh dự báo của các mô hình thống kê sử dụng các chỉ số hoàn lưu khí quyển với các yếu tố dự báo là các loại số liệu lượng mưa khác nhau, bao gồm: mưa quan trắc, mưa tái phân tích ERA và mưa ước lượng từ vệ tinh GPCP. Nghiên cứu đã đánh giá được tương quan của lượng mưa với các giá trị tốc độ thẳng đứng, độ phân kỳ và giá trị xoáy thế trên các mực khác nhau ở các khu vực Bắc Bộ. Bên cạnh đó, nghiên cứu đã xây dựng được 9 phương trình hồi quy tuyến tính đa biến cho 3 loại số liệu mưa và cho 3 khu vực ở Bắc Bộ. Kết quả đánh giá độc lập cho thấy khi so sánh lượng mưa tính toán với số liệu mưa tái phân tích ERA cho sai số nhỏ nhất, giá trị tương quan cao, có điểm lưới đạt giá trị tương quan trên 0,9. Từ khóa: Xoáy thế, định lượng mưa, thống kê sau mô hình, hiệu chỉnh. Ban Biên tập nhận bài: 08/12/2018 Ngày phản biện xong: 18/02/2019 Ngày đăng bài: 25/02/2019 1. Mở đầu đã sử dụng xoáy thế, tốc độ thẳng đứng, độ phân Ở vùng nhiệt đới, Berry và cs (2012) [1], Lam kỳ trên các mực đẳng nhiệt độ thế vị và mực Hoang và cs (2019) [6] đã sử dụng xoáy thế trên đẳng áp là nhân tố dự báo trong bài toán xây các mặt đẳng nhiệt độ thế vị để phân tích và theo dựng mô hình hồi quy từng bước dự báo mưa dấu các nhiễu động xoáy thuận trên khu vực cho khu vực Bắc Bộ với yếu tố dự báo là lượng Châu Úc và chỉ ra rằng mưa vùng nhiệt đới mưa quan trắc 24 giờ. Kết quả đánh giá và so thường liên quan đến xoáy thế trên các mực đẳng sánh lượng mưa hiệu chỉnh với lượng mưa tái nhiệt độ thế vị. Mối quan hệ giữa xoáy thế và phân tích cho thấy hệ số tương quan đạt 0,6 đến dông hay các hệ thống đối lưu cũng được Herte- 0,8, tuy nhiên sai số RMSE còn lớn, từ 4,6 đến instein [8] và Nielsen-Gammon [3]. Ở khu vực 6,1 mm/ngày. Châu Á, năm 1996, Du Jun và cs (1996) [4] đã Bài toán hiệu chỉnh dự báo mưa của mô hình nghiên cứu về các hệ thống đối lưu quy mô vừa số ra đời đã giúp cải thiện đáng kể sai số của mô dọc front Baiu và chỉ ra rằng, nguyên nhân tạo ra hình. Hiện tại, thống kê sau mô hình (MOS) những ổ mây đối lưu này là sự bất ổn định của đang được tiếp tục phát triển theo hai hướng mới xoáy thế cực đại tầng thấp dọc front. Tác giả là GMOS (dự báo thống kê sau mô hình trên cũng chỉ ra rằng sự di chuyển của các hệ thống lưới) và EMOS (dự báo thống kê sau mô hình tổ đối lưu quy mô vừa từ tây sang đông có dạng hợp). Nếu như theo phương pháp MOS thông sóng với bước sóng 1700 - 2100 km và ít phụ thường ta chỉ xây dựng phương trình dự báo tại thuộc vào kích thước của dị thường xoáy thế. trạm, sau đó cũng đưa ra dự báo tại điểm trạm Ở Việt Nam, Hoàng Phúc Lâm và cs [5] cũng thì GMOS hướng đến sử dụng MOS dự báo trên 1 Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn quốc gia, Tổng cục KTTV 2 Viện Vật lý Địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 3 Học viên Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Email: lamhpvn@gmail.com 45 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN Số tháng 02 - 2019 BÀI BÁO KHOA HỌC lưới lưới (Dallavalle và Glahn 2005) [2]. Nếu nhiệt động lực cho trong Bảng 1, từ thứ 4 đến như thám sát được cho trên lưới thì GMOS chính thứ 18 của ba phân vùng trên khu vực Bắc Bộ. là phương pháp MOS thông thường. Nếu các Kết quả được trình bày trong bảng 1. thám sát phân bố không đều, sau khi có dự báo Xét tương quan giữa các loại số liệu mưa, qua MOS tại trạm, sử dụng các kỹ thuật phân tích hai phân tích tổng quát bảng 1 cho thấy số liệu tái chiều để chuyển các dự báo này về lưới. Với phân tích ERA có tương quan tốt nhất với mưa EMOS, thay vì sử dụng MOS cho một mô hình quan trắc, giá trị tương quan ở các khu vực B1, người ta sử dụng các phương pháp thống kê dựa B2, B3 lần lượt là 0,54 và 0,6. Trong khi đó, trên dự báo từ nhiều mô hình. Trong nghiên cứu tương quan với mưa quan trắc của mưa vệ tinh này sẽ sử dụng phương pháp GMOS để dự báo GPCP kém hơn, với giá trị tương ứng là 0,45, mưa trên lưới. Trong nỗ lực tăng cường chất 0,49 và 0.52. Điều này có thể do số liệu mưa vệ lượng dự báo, đã có một vài nghiên cứu trong ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
So sánh, đánh giá các mô hình thống kê hiệu chỉnh dự báo lượng mưa sử dụng các chỉ số hoàn lưu và nhiệt động lực khí quyển BÀI BÁO KHOA HỌC SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH THỐNG KÊ HIỆU CHỈNH DỰ BÁO LƯỢNG MƯA SỬ DỤNG CÁC CHỈ SỐ HOÀN LƯU VÀ NHIỆT ĐỘNG LỰC KHÍ QUYỂN Hoàng Phúc Lâm1, Nguyễn Đức Nam2, Lê Minh Đức3 Tóm tắt: Trong bài báo này, nhóm nghiên cứu đánh giá và so sánh chất lượng hiệu chỉnh dự báo của các mô hình thống kê sử dụng các chỉ số hoàn lưu khí quyển với các yếu tố dự báo là các loại số liệu lượng mưa khác nhau, bao gồm: mưa quan trắc, mưa tái phân tích ERA và mưa ước lượng từ vệ tinh GPCP. Nghiên cứu đã đánh giá được tương quan của lượng mưa với các giá trị tốc độ thẳng đứng, độ phân kỳ và giá trị xoáy thế trên các mực khác nhau ở các khu vực Bắc Bộ. Bên cạnh đó, nghiên cứu đã xây dựng được 9 phương trình hồi quy tuyến tính đa biến cho 3 loại số liệu mưa và cho 3 khu vực ở Bắc Bộ. Kết quả đánh giá độc lập cho thấy khi so sánh lượng mưa tính toán với số liệu mưa tái phân tích ERA cho sai số nhỏ nhất, giá trị tương quan cao, có điểm lưới đạt giá trị tương quan trên 0,9. Từ khóa: Xoáy thế, định lượng mưa, thống kê sau mô hình, hiệu chỉnh. Ban Biên tập nhận bài: 08/12/2018 Ngày phản biện xong: 18/02/2019 Ngày đăng bài: 25/02/2019 1. Mở đầu đã sử dụng xoáy thế, tốc độ thẳng đứng, độ phân Ở vùng nhiệt đới, Berry và cs (2012) [1], Lam kỳ trên các mực đẳng nhiệt độ thế vị và mực Hoang và cs (2019) [6] đã sử dụng xoáy thế trên đẳng áp là nhân tố dự báo trong bài toán xây các mặt đẳng nhiệt độ thế vị để phân tích và theo dựng mô hình hồi quy từng bước dự báo mưa dấu các nhiễu động xoáy thuận trên khu vực cho khu vực Bắc Bộ với yếu tố dự báo là lượng Châu Úc và chỉ ra rằng mưa vùng nhiệt đới mưa quan trắc 24 giờ. Kết quả đánh giá và so thường liên quan đến xoáy thế trên các mực đẳng sánh lượng mưa hiệu chỉnh với lượng mưa tái nhiệt độ thế vị. Mối quan hệ giữa xoáy thế và phân tích cho thấy hệ số tương quan đạt 0,6 đến dông hay các hệ thống đối lưu cũng được Herte- 0,8, tuy nhiên sai số RMSE còn lớn, từ 4,6 đến instein [8] và Nielsen-Gammon [3]. Ở khu vực 6,1 mm/ngày. Châu Á, năm 1996, Du Jun và cs (1996) [4] đã Bài toán hiệu chỉnh dự báo mưa của mô hình nghiên cứu về các hệ thống đối lưu quy mô vừa số ra đời đã giúp cải thiện đáng kể sai số của mô dọc front Baiu và chỉ ra rằng, nguyên nhân tạo ra hình. Hiện tại, thống kê sau mô hình (MOS) những ổ mây đối lưu này là sự bất ổn định của đang được tiếp tục phát triển theo hai hướng mới xoáy thế cực đại tầng thấp dọc front. Tác giả là GMOS (dự báo thống kê sau mô hình trên cũng chỉ ra rằng sự di chuyển của các hệ thống lưới) và EMOS (dự báo thống kê sau mô hình tổ đối lưu quy mô vừa từ tây sang đông có dạng hợp). Nếu như theo phương pháp MOS thông sóng với bước sóng 1700 - 2100 km và ít phụ thường ta chỉ xây dựng phương trình dự báo tại thuộc vào kích thước của dị thường xoáy thế. trạm, sau đó cũng đưa ra dự báo tại điểm trạm Ở Việt Nam, Hoàng Phúc Lâm và cs [5] cũng thì GMOS hướng đến sử dụng MOS dự báo trên 1 Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn quốc gia, Tổng cục KTTV 2 Viện Vật lý Địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 3 Học viên Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Email: lamhpvn@gmail.com 45 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN Số tháng 02 - 2019 BÀI BÁO KHOA HỌC lưới lưới (Dallavalle và Glahn 2005) [2]. Nếu nhiệt động lực cho trong Bảng 1, từ thứ 4 đến như thám sát được cho trên lưới thì GMOS chính thứ 18 của ba phân vùng trên khu vực Bắc Bộ. là phương pháp MOS thông thường. Nếu các Kết quả được trình bày trong bảng 1. thám sát phân bố không đều, sau khi có dự báo Xét tương quan giữa các loại số liệu mưa, qua MOS tại trạm, sử dụng các kỹ thuật phân tích hai phân tích tổng quát bảng 1 cho thấy số liệu tái chiều để chuyển các dự báo này về lưới. Với phân tích ERA có tương quan tốt nhất với mưa EMOS, thay vì sử dụng MOS cho một mô hình quan trắc, giá trị tương quan ở các khu vực B1, người ta sử dụng các phương pháp thống kê dựa B2, B3 lần lượt là 0,54 và 0,6. Trong khi đó, trên dự báo từ nhiều mô hình. Trong nghiên cứu tương quan với mưa quan trắc của mưa vệ tinh này sẽ sử dụng phương pháp GMOS để dự báo GPCP kém hơn, với giá trị tương ứng là 0,45, mưa trên lưới. Trong nỗ lực tăng cường chất 0,49 và 0.52. Điều này có thể do số liệu mưa vệ lượng dự báo, đã có một vài nghiên cứu trong ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Khí tượng thủy văn Bài viết về môi trường Định lượng mưa Thống kê sau mô hình Mưa quan trắcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan về hệ thống mô hình hóa telemac-mascaret và khả năng ứng dụng
5 trang 111 0 0 -
Mô phỏng các nguy cơ ngập lụt bởi nước biển dâng biến đổi khí hậu tại cửa sông Mã, Thanh Hóa
8 trang 77 0 0 -
10 trang 62 0 0
-
Tổng hợp và nghiên cứu khả năng tạo apatit của khuôn định dạng hydroxyapatit trên nền chitosan
9 trang 49 0 0 -
Phân tích độ bất định trong xây dựng bản đồ ngập lụt dựa trên phương pháp mô phỏng
15 trang 42 0 0 -
8 trang 34 0 0
-
12 trang 33 0 0
-
Cách tiếp cận mới xây dựng đường đặc tính hồ chứa bằng việc sử dụng ảnh viễn thám Radar Sentinel-1
10 trang 32 0 0 -
10 trang 32 0 0
-
Tạp chí Môi trường: Chuyên đề 4/2018
108 trang 29 0 0