Sống mãi với thủ đô và Hà Nội – mùa đông 46 của Nguyễn Huy Tưởng trong mạng lưới liên văn bản
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 419.08 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khái niệm “Liên văn bản” (Intertexuality) được xem là một trong những phát hiện quan trọng của khoa học văn chương nửa sau thế kỉXX. Julia Kristeva trong công trình Từ, đối thoại và tiểu thuyết năm 1960 đã lần đầu tiên đề xuất khái niệm này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sống mãi với thủ đô và Hà Nội – mùa đông 46 của Nguyễn Huy Tưởng trong mạng lưới liên văn bảnSỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ VÀ HÀ NỘI – MÙA ĐÔNG 46CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG TRONG MẠNG LƯỚI LIÊN VĂN BẢNLÊ THỊ DƯƠNG*Khái niệm “Liên văn bản” (Intertexuality)được xem là một trong những phát hiện quantrọng của khoa học văn chương nửa sau thế kỉXX. Julia Kristeva trong công trình Từ, đối thoạivà tiểu thuyết năm 1960 đã lần đầu tiên đề xuấtkhái niệm này. Không phải ngẫu nhiên màKristeva lựa chọn giới thiệu và lý giải những tưtưởng của Mikhail Bakhtin, đặc biệt là quanniệm về tính đối thoại. Cũng chính Kristeva đãkhẳng định tư tưởng về liên văn bản củaBakhtin, dù ông không hề dùng thuật ngữ này1.Có thể nói, với việc khám phá ra nguyên tắc đốithoại, Bakhtin đã khai mở con đường đến với líluận liên văn bản.Theo cách diễn giải của Bakhtin, mọi phátngôn đều có tính đối thoại, nghĩa là nó luôn đáplại những phát ngôn trước đó và luôn phát thôngđiệp đến những người nói tiềm năng khác2. Tuynhiên, đối thoại với Bakhtin, tuy là bản chất củađời sống xã hội, nhưng không diễn ra tùy tiện,mà luôn phụ thuộc vào người phát ngôn, khônggian và thời gian phát ngôn. “Các văn bản là đốithoại trong tiến trình tạo nghĩa phụ thuộc vào tácgiả, thời gian và không gian nơi mà nó đượcviết, và ý nghĩa được cấu thành bởi người đọc”3.Nguyên tắc đối thoại đã tạo ra quan hệ hai chiềugiữa các văn bản, kết nối văn bản có trước vàvăn bản có sau trong cuộc “chuyện trò” hoặcngẫu nhiên hoặc hữu ý. Chẳng hạn trường hợpchuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩmđiện ảnh, hay trường hợp viết lại chuyện cũ, cóthể coi là hành vi đối thoại hữu ý và trực tiếp đốivới các văn bản ra đời trước.Với Bakhtin, và với các nhà lí luận liên vănbản sau này, tính đối thoại không chỉ giới hạnThS. Viện Văn họctrong phạm vi những văn bản cùng loại, cũngnhư vậy, liên văn bản không đóng khungtrong nội bộ văn bản văn học mà mở rộng racác văn bản nghệ thuật (hội họa, điện ảnh, âmnhạc…), rộng hơn nữa, các văn bản địa lý,lịch sử, tôn giáo…Rõ ràng, bản chất đối thoại của ngôn ngữtheo lập luận của Bakhtin đã “khiêu chiến” vớinhững sự đơn nhất cố định, đặt tính độc đoán,chuyên chế của một diễn ngôn, một văn bảntrước nguy cơ bị phá vỡ, bị xuyên thấm. Và đókhông còn là một nguy cơ, mà sau này đã hiểnlộ thành thực tế và được Kristeva chỉ rõ: “Bất cứsự viết thành một văn bản nào cũng đều giốngnhư sự tạo thành một bức tranh nhiều màu sắc,bất cứ một văn bản nào cũng đều hấp thu vàchuyển đổi với các văn bản khác”4. Việc khámphá ra tính liên văn bản đã “hạ bệ” tính độcsáng, khiến cho “ranh giới giữa văn học và cáiphi văn học trở thành mập mờ”5. Chính sự “mậpmờ” này lại mở ra những khả năng mới trongviệc xác định mối quan hệ giữa các văn bảnkhông cùng kiểu kí hiệu, chẳng hạn giữa vănhọc và điện ảnh.Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, điện ảnhlà một loại hình nghệ thuật tổng hợp, ra đời rấtlâu sau văn học, kịch, âm nhạc, múa, hội họa,kiến trúc. Sự phát triển của văn học đã cung cấpnguồn tư liệu quý giá cho sự phát triển của điệnảnh. Điều ấy có thể thấy rõ trong lịch sử nghệthuật thế giới và cả Việt Nam. Có không ít tácphẩm văn học là tiền đề cho tác phẩm điện ảnhvà được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh.Một số trường hợp, tác phẩm điện ảnh và tácphẩm văn học gặp gỡ nhau ở cùng một chủ đề,một đối tượng phản ánh, một nguồn cảm hứng;58một số khác lại là sự hồi đáp, là tiếng vọng củanhau. Nói chung quan hệ giữa chúng ngày càngđa dạng. Tìm hiểu quan hệ này là tìm hiểu cáimà khoa học hiện đại gọi là “quan hệ liên vănbản”. Nếu coi tác phẩm văn học và tác phẩmđiện ảnh là hai hệ thống kí hiệu khác nhau thìtrong trường hợp này, mối quan hệ liên văn bảngiữa văn bản văn học và văn bản điện ảnh càngtrở nên phức tạp, vì đây là sự tham chiếu giữahai loại văn bản thuộc hai loại hình nghệ thuậtkhác nhau, giữa văn bản văn học và văn bản phi- văn học tạo nên mạng lưới mở rộng tập trungnhiều loại kí hiệu văn hóa.Đặt tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô củaNguyễn Huy Tưởng và bộ phim Hà Nội Mùa đông 46 trong mối liên hệ với nhau,người viết muốn tìm hiểu tính tương hỗ, tínhliên văn bản giữa các văn bản không cùngkiểu kí hiệu với nhau, nhưng lại biểu hiệncùng một chủ đề. Thực chất là tìm hiểu tínhchất đối thoại giữa các văn bản (theo cách nóicủa Bakhtin) hay tính “đa bội” của các vănbản (theo cách nói của R.Bathers).Hình ảnh Hà Nội trong trang văn của NguyễnHuy Tưởng thấp thoáng trong Hà Nội - Mùađông 46, có khi hiển hiện rõ nét, có những saibiệt, có những tương đồng. Xem Hà Nội - Mùađông 46, không thể không liên tưởng đến Sốngmãi với thủ đô nếu ai đã từng đọc tiểu thuyết nàyrồi. Cũng tinh thần ấy, cũng không khí ấy,không gian ấy và phần nào hình sắc ấy, có thểnói, lịch sử đã đi vào văn học và điện ảnh theocác cách khác nhau nhưng cùng thể hiện chungmột tính chất. Đặc trưng liên văn bản cũng đượcbộc lộ rõ ở đây, nghĩa là từ một văn bản ra đờimuộn hơn, người ta có thể liên tưởng/ liên ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sống mãi với thủ đô và Hà Nội – mùa đông 46 của Nguyễn Huy Tưởng trong mạng lưới liên văn bảnSỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ VÀ HÀ NỘI – MÙA ĐÔNG 46CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG TRONG MẠNG LƯỚI LIÊN VĂN BẢNLÊ THỊ DƯƠNG*Khái niệm “Liên văn bản” (Intertexuality)được xem là một trong những phát hiện quantrọng của khoa học văn chương nửa sau thế kỉXX. Julia Kristeva trong công trình Từ, đối thoạivà tiểu thuyết năm 1960 đã lần đầu tiên đề xuấtkhái niệm này. Không phải ngẫu nhiên màKristeva lựa chọn giới thiệu và lý giải những tưtưởng của Mikhail Bakhtin, đặc biệt là quanniệm về tính đối thoại. Cũng chính Kristeva đãkhẳng định tư tưởng về liên văn bản củaBakhtin, dù ông không hề dùng thuật ngữ này1.Có thể nói, với việc khám phá ra nguyên tắc đốithoại, Bakhtin đã khai mở con đường đến với líluận liên văn bản.Theo cách diễn giải của Bakhtin, mọi phátngôn đều có tính đối thoại, nghĩa là nó luôn đáplại những phát ngôn trước đó và luôn phát thôngđiệp đến những người nói tiềm năng khác2. Tuynhiên, đối thoại với Bakhtin, tuy là bản chất củađời sống xã hội, nhưng không diễn ra tùy tiện,mà luôn phụ thuộc vào người phát ngôn, khônggian và thời gian phát ngôn. “Các văn bản là đốithoại trong tiến trình tạo nghĩa phụ thuộc vào tácgiả, thời gian và không gian nơi mà nó đượcviết, và ý nghĩa được cấu thành bởi người đọc”3.Nguyên tắc đối thoại đã tạo ra quan hệ hai chiềugiữa các văn bản, kết nối văn bản có trước vàvăn bản có sau trong cuộc “chuyện trò” hoặcngẫu nhiên hoặc hữu ý. Chẳng hạn trường hợpchuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩmđiện ảnh, hay trường hợp viết lại chuyện cũ, cóthể coi là hành vi đối thoại hữu ý và trực tiếp đốivới các văn bản ra đời trước.Với Bakhtin, và với các nhà lí luận liên vănbản sau này, tính đối thoại không chỉ giới hạnThS. Viện Văn họctrong phạm vi những văn bản cùng loại, cũngnhư vậy, liên văn bản không đóng khungtrong nội bộ văn bản văn học mà mở rộng racác văn bản nghệ thuật (hội họa, điện ảnh, âmnhạc…), rộng hơn nữa, các văn bản địa lý,lịch sử, tôn giáo…Rõ ràng, bản chất đối thoại của ngôn ngữtheo lập luận của Bakhtin đã “khiêu chiến” vớinhững sự đơn nhất cố định, đặt tính độc đoán,chuyên chế của một diễn ngôn, một văn bảntrước nguy cơ bị phá vỡ, bị xuyên thấm. Và đókhông còn là một nguy cơ, mà sau này đã hiểnlộ thành thực tế và được Kristeva chỉ rõ: “Bất cứsự viết thành một văn bản nào cũng đều giốngnhư sự tạo thành một bức tranh nhiều màu sắc,bất cứ một văn bản nào cũng đều hấp thu vàchuyển đổi với các văn bản khác”4. Việc khámphá ra tính liên văn bản đã “hạ bệ” tính độcsáng, khiến cho “ranh giới giữa văn học và cáiphi văn học trở thành mập mờ”5. Chính sự “mậpmờ” này lại mở ra những khả năng mới trongviệc xác định mối quan hệ giữa các văn bảnkhông cùng kiểu kí hiệu, chẳng hạn giữa vănhọc và điện ảnh.Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, điện ảnhlà một loại hình nghệ thuật tổng hợp, ra đời rấtlâu sau văn học, kịch, âm nhạc, múa, hội họa,kiến trúc. Sự phát triển của văn học đã cung cấpnguồn tư liệu quý giá cho sự phát triển của điệnảnh. Điều ấy có thể thấy rõ trong lịch sử nghệthuật thế giới và cả Việt Nam. Có không ít tácphẩm văn học là tiền đề cho tác phẩm điện ảnhvà được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh.Một số trường hợp, tác phẩm điện ảnh và tácphẩm văn học gặp gỡ nhau ở cùng một chủ đề,một đối tượng phản ánh, một nguồn cảm hứng;58một số khác lại là sự hồi đáp, là tiếng vọng củanhau. Nói chung quan hệ giữa chúng ngày càngđa dạng. Tìm hiểu quan hệ này là tìm hiểu cáimà khoa học hiện đại gọi là “quan hệ liên vănbản”. Nếu coi tác phẩm văn học và tác phẩmđiện ảnh là hai hệ thống kí hiệu khác nhau thìtrong trường hợp này, mối quan hệ liên văn bảngiữa văn bản văn học và văn bản điện ảnh càngtrở nên phức tạp, vì đây là sự tham chiếu giữahai loại văn bản thuộc hai loại hình nghệ thuậtkhác nhau, giữa văn bản văn học và văn bản phi- văn học tạo nên mạng lưới mở rộng tập trungnhiều loại kí hiệu văn hóa.Đặt tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô củaNguyễn Huy Tưởng và bộ phim Hà Nội Mùa đông 46 trong mối liên hệ với nhau,người viết muốn tìm hiểu tính tương hỗ, tínhliên văn bản giữa các văn bản không cùngkiểu kí hiệu với nhau, nhưng lại biểu hiệncùng một chủ đề. Thực chất là tìm hiểu tínhchất đối thoại giữa các văn bản (theo cách nóicủa Bakhtin) hay tính “đa bội” của các vănbản (theo cách nói của R.Bathers).Hình ảnh Hà Nội trong trang văn của NguyễnHuy Tưởng thấp thoáng trong Hà Nội - Mùađông 46, có khi hiển hiện rõ nét, có những saibiệt, có những tương đồng. Xem Hà Nội - Mùađông 46, không thể không liên tưởng đến Sốngmãi với thủ đô nếu ai đã từng đọc tiểu thuyết nàyrồi. Cũng tinh thần ấy, cũng không khí ấy,không gian ấy và phần nào hình sắc ấy, có thểnói, lịch sử đã đi vào văn học và điện ảnh theocác cách khác nhau nhưng cùng thể hiện chungmột tính chất. Đặc trưng liên văn bản cũng đượcbộc lộ rõ ở đây, nghĩa là từ một văn bản ra đờimuộn hơn, người ta có thể liên tưởng/ liên ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sống mãi với thủ đô và Hà Nội Mùa đông 46 Nguyễn Huy Tưởng Mạng lưới liên văn bản Liên văn bảnGợi ý tài liệu liên quan:
-
'Đàn ghi ta của Lor Ca' (Thanh Thảo) và năng lực gợi dẫn của bút pháp tượng trưng – siêu thực
4 trang 117 0 0 -
Nghiên cứu tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương từ lý thuyết liên văn bản
10 trang 58 0 0 -
Kết cấu mở và vấn đề liên văn bản: Nhìn từ trường hợp tiểu thuyết Thái Bá Lợi
8 trang 42 0 0 -
6 trang 30 0 0
-
73 trang 21 0 0
-
LUẬN VĂN Tổng quan về liên văn bản
38 trang 19 0 0 -
Đặc trưng hậu hiện đại trong tiểu thuyết 'Thành phố thủy tinh' của Paul Auster
5 trang 17 0 0 -
Bài giảng Ngữ văn 11 - Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Nguyễn Huy Tưởng (Tiết 1)
13 trang 17 0 0 -
Quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng về lịch sử
10 trang 14 0 0 -
Truyện cổ tích của Nguyễn Huy Tưởng và mĩ học tiếp nhận văn học của thiếu nhi
6 trang 14 0 0