Danh mục

SÔNG NGÒI VIỆT NAM

Số trang: 11      Loại file: doc      Dung lượng: 104.00 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (11 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đồng Nai là một hệ thống sông lớn ở phía Nam cũng như trong cả nước ta, đặc biệt là về lượng nước. Hệ thống sông này phát triển trên các cao nguyên Mạ, Mnông, Di Linh và Lâm Viên ở phía Nam Tây Nguyên và một phần của đồng bằng Nam Bộ; chỉ có một bộ phận rất nhỏ nằm bên đất nước Campuchia anh em (668 km2 chiếm khoảng gần 2% diện tích toàn lưu vực). Đây là một vùng kinh tế rất trù phú, nhất là về các cây công nghiệp nhiệt đới như: cao su, cà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÔNG NGÒI VIỆT NAM SÔNG NGÒI VIỆT NAM HỆ THÔNG ́ ̀ SÔNG ĐÔNG NAIĐồng Nai là một hệ thống sông lớn ở phía Nam cũng như trong cả nước ta, đặc biệtlà về lượng nước. Hệ thống sông này phát triển trên các cao nguyên Mạ, Mnông, DiLinh và Lâm Viên ở phía Nam Tây Nguyên và một phần của đồng bằng Nam Bộ; chỉcó một bộ phận rất nhỏ nằm bên đất nước Campuchia anh em (668 km2 chiếmkhoảng gần 2% diện tích toàn lưu vực). Đây là một vùng kinh tế rất trù phú, nhất làvề các cây công nghiệp nhiệt đới như: cao su, cà phê. Trong lưu vực, nhiều nơi cóthể xây dựng thành những trung tâm thủy điện. Cửa sông Đồng Nai lại rộng và sâu,thuộc kiểu cửa sông vịnh nên giao thông rất thuận tiện.Một vài đặc điểm về hình thái cơ bảnSông Đồng Nai dài khoảng 586,4 km, diện tích toàn lưu vực là 36.000 km2.Sông Đồng Nai, mà phía thượng lưu có tên là Đa Dung, bắt nguồn từ phía bắc dãynúi Lang Biang ở độ cao khoảng 1.770m. Sau khi hợp lưu với Đa Nhim, sông có tênlà Đạ Đờng hay Đồng Nai Thượng. Từ đó cho tới chỗ hợp lưu với sông Sài Gòn,sông mang tên chính thức là Đồng Nai hay Đồng Nai ngắn. Dưới thành phố Hồ ChíMinh, sông chia làm 2 chi lưu chính. Ngay dưới thành phố Hồ Chí Minh là Lòng Tàuhay sông Sài Gòn, chảy vào vũng Cần Giờ. Cửa sông rộng và sâu nên tàu bè ra vàocảng Sài Gòn đều theo đường này. Nhánh dưới là sông Nhà Bè rồi đổ ra biển qua SoiRáp. Hệ thống các sông Vàm Cỏ Đông và Tây từ Campuchia về đổ vào Đồng Nai ởcửa này. Cửa Soi Ráp rất rộng, có thể tới 11 km, song đi lại khó khăn vì vướng nhiềusoi, bãi cát. Sông Đồng Nai uốn thành những khúc cong lớn trên cao nguyên Đà Lạt,nhất là trên cao nguyên Di Linh; song nhìn chung chảy theo một hướng khá đặc biệtgần như đông bắc - tây nam. Cho mãi tới Tân Vạn, sau khi hợp lưu với sông Bé, sôngmới chuyển sang hướng tây bắc - đông nam khá điển hình, nhất là sau khi hợp lưuvới sông Sài Gòn. Thực ra, có thể Đồng Nai trước đây đã có thời kì là phụ lưu củaMê Kông trên các dòng: Bé, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông và Tây mà các con đường bộ đãđi theo các hướng này: con đường Sài Gòn - Lộc Ninh - Kratiê và Sài Gòn - Tây Ninh- Kôngpông Chàm.Đồng Nai là một sông già được trẻ lại do tác động của tạo sơn Tân Sinh mà biểuhiện qua các cao nguyên xếp tầng: Lang Biang với độ cao khoảng 1.500m, Di Linhvới độ cao khoảng 1.000m, các cao nguyên Mạ và Mnông với độ cao bình quânkhoảng 750m và cuối cùng là đồng bằng Nam Bộ. Do đó trắc diện dọc của sông códạng bậc thang phức tạp. Tuy vậy, vẫn có thể chia trắc diện dọc của sông chínhĐồng Nai thành 3 đoạn như sau:Thượng lưu: tồn tại trong một đoạn ngắn từ nguồn cho tới Đankir (Lâm Đồng). Ởđây lòng sông hẹp và độ dốc rất lớn, có thể tới 20 - 25%. Lòng sông lởm chởmnhững đá, nên ít có tác dụng về giao thông cũng như thủy lợi. Đây là đoạn sông cũ,chưa bị tác dụng xâm thực thứ sinh.Trung lưu: phát triển rất dài từ Đankir đến Tân Uyên. Trong đoạn này, nói chung lòngsông mở rộng, độ dốc kém. Dòng sông uốn khúc quanh co giữa các soi, bãi 2 bờ.Dòng sông mới đang phát triển trong lòng sông này. Lượng nước sông đã nhiều hơnnên việc đi lại thuận lợi. Tuy vậy ở các chỗ chuyển tiếp của các cao nguyên, độ dốclòng sông tăng và phát triển thành nhiều thác, ghềnh ít thuận lợi cho giao thông, songlại có nhiều triển vọng về thủy điện như các thác Ankroet, Trị An. Các phụ lưu lớnphát triển trên từng cao nguyên cũng mang rõ nét đặc tính này: Đa Nhim (trước Dran),La Ngà...Hạ lưu: không phát triển lắm trên đoạn từ Tân Uyên cho ra tới Cần Giờ. Ở đoạnnày, lòng sông rất rộng và sâu tới 18m, lại chịu tác động mạnh của thủy triều, nênmang tính chất của dạng cửa sông vịnh khá điển hình. Thủy triều tác động lên tớitận Tân Uyên với biên độ khá lớn. Đặc biệt, các chi lưu lớn phía dưới cũng chịu tácđộng mạnh của thủy triều: các sông Vàm Cỏ Đông và Tây, sông Sài Gòn và cả sôngBé nữa. Cảng Sài Gòn trên thành phố Hồ Chí Minh nằm trên sông Sài Gòn, ngay phíatrên chỗ hợp lưu với Đồng Nai một đoạn.Hệ thống sông Đồng Nai có khá nhiều phụ lưu. Số phụ lưu có chiều dài dòng sôngtrên 10km tới 233 con. Tuy vậy trong số các phụ lưu này, đáng kể cũng chỉ có mộtvài sông lớn như Đa Nhim, La Ngà, Đak Nông, Đạ Huoai, Bé, Sài Gòn và hệ thốngVàm Cỏ - Đa Nhim (mà thượng lưu còn gọi là Đa E Cấp, bắt nguồn từ dãy núi Jaric(1930m). Ở cao nguyên Đà Lạt, thung lũng Đa Nhim đã khá phát triển. Trên bề mặtDran, sông uốn khúc quanh co. Độ dốc lòng sông khoảng 6,4%. Song từ Dran trở đi,lòng sông hẹp lại ở nơi chuyển tiếp xuống cao nguyên Di Linh và sau đó nhập vàoĐa Dung. Ở đoạn này, sông chảy qua nhiều thác: Liên Khương, Gu Ga, và nhất làthác Pongua cao tới 40m. La Ngà cũng là 1 phụ lưu ở tả ngạn. Sông bắt nguồn từ caonguyên Di Linh và chảy trên bề mặt khá bằng phẳng. Dòng sông dài khoảng 272 kmvà chảy theo hướng gần như song song với dòng chính. Độ dốc lòng sông khoảng4,3%. Lòng sông uốn khúc quanh co, lại bị chặn bởi nhiều khối đá basalt nên nướcsông khó tiêu, nhất là về mùa lũ sông thường gây ngập lụt. Tiếp về phía hạ lưu,Đồng Nai nhận thêm nước của sông Bé. Chiều dài dòng sông khoảng 344 km.Thượng lưu còn có tên là Đak Glun, chảy từ phía tây cao nguyên Mnông xuống. Ởđây sông nhiều thác ghềnh, song khi đi vào đồng bằng Nam Bộ, sông đã mang đầyđủ tính chất của 1 đoạn hạ lưu. Độ dốc lòng sông khoảng 2,1%, thủy triều tác độngkhá mạnh trên sông này. Dưới sông Bé là các sông: Sài Gòn và hệ thống Vàm Cỏchảy từ Campuchia về cùng ở phía hữu ngạn. Sông Sài Gòn dài khoảng 130 km vàđộ dốc lòng sông là 0,6%, nên gần như một đoạn hạ lưu của Mê Kông cũ, ở hệthống các sông Vàm Cỏ Đông và Tây. Lòng sông rộng và sâu, thủy triều tác độngmạnh nên việc đi lại trên sông rất thuận lợi. Các phụ lưu này có thể cung cấp mộtphần nước lớn cho dòng chính: La Ngà khoảng hơn 1/8 và nhất là sông Bé có thểcung cấp tới khoảng 1/4 tổng lượng nước chung của toàn hệ thống... Tuy vậy, cácphụ lưu của hệ thống này lại họp th ...

Tài liệu được xem nhiều: