Danh mục

Sử dụng công cụ lãi suất và tỷ giá trong giai đoạn hậu suy giảm kinh tế

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 214.13 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tình hình kinh tế, tài chính ở Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2009 đã có dấu hiệu khởi sắc: GDP đã tăng trên 4%/năm, nhập siêu được cải thiện, lạm phát ở mức 3,2%/năm so với năm 2008(1), nhiều doanh nghiệp (DN) đã và đang trong quá trình phục hồi phát triển mạnh; chỉ số chứng khoán tăng nhanh(2). Song xem xét một cách toàn diện thì kinh tế - tài chính vẫn còn dấu hiệu bất ổn, thị trường xuất khẩu truyền thống bị co hẹp, kim ngạch xuất khẩu hầu như không tăng, nhưng kim ngạch...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng công cụ lãi suất và tỷ giá trong giai đoạn hậu suy giảm kinh tế Sử dụng công cụ lãi suất và tỷ giá trong giai đoạn hậu suy giảm kinh tếTình hình kinh tế, tài chính ở Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2009 đã có dấuhiệu khởi sắc: GDP đã tăng trên 4%/năm, nhập siêu được cải thiện, lạm phát ởmức 3,2%/năm so với năm 2008(1), nhiều doanh nghiệp (DN) đã và đang trongquá trình phục hồi phát triển mạnh; chỉ số chứng khoán tăng nhanh(2).Song xem xét một cách toàn diện thì kinh tế - tài chính vẫn còn dấu hiệu bất ổn,thị trường xuất khẩu truyền thống bị co hẹp, kim ngạch xuất khẩu hầu như khôngtăng, nhưng kim ngạch nhập khẩu lại tăng đều từ ngưỡng 5,4 tỷ USD tháng 5 nayđã lên tới 6,2 tỷ USD tháng 8, xuất khẩu khó đạt mục tiêu đặt ra(3). Tín dụng códấu hiệu tăng trưởng nóng, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn kịch trần, sức éplạm phát không nhỏ. Tháng 7&8 nhiều giải pháp từ phía Chính phủ, Ngân hàngNhà nước Việt Nam (NHNN), các Bộ, Ngành tiếp tục được triển khai. NHNN cómột số động thái kiểm soát tín dụng tiêu dùng, chứng khoán, cũng như giảm tỷ lệtối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn đối vớitừng tổ chức tín dụng(4), để một mặt giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo an toànthanh khoản, mặt khác phát đi tín hiệu kiềm chế tốc độ tăng trưởng nóng của nềnkinh tế. Giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế, sử dụng công cụ lãi suất và tỷ giá theohướng nào để chủ động kiểm soát lạm phát, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế ổn địnhvào năm 2010 và các năm tiếp theo là vấn đề cần phải trao đổi. Bài viết này xinbàn đến một khía cạnh nhỏ, đó là sử dụng công cụ lãi suất & tỷ giá hối đoái tronggiai đoạn hậu suy giảm kinh tế.Thứ nhất, công cụ lãi suấtVới những diễn biến hiện tại trên thị trường tín dụng: sức ép về vốn gia tăng, hầuhết các ngân hàng thương mại (NHTM) đã đẩy lãi suất huy động VND đến trên9%/ năm đối với kỳ hạn dài, lãi suất ở hầu hết các kỳ hạn ngắn hạn cũng đượcđiều chỉnh, trong khi lãi suất đầu ra cho sản xuất kinh doanh vẫn đang được khốngchế ở mức tối đa 10,5%/ năm. Một câu hỏi đặt ra là: Có nên tiếp tục khống chếtrần lãi suất cho vay đối với các NHTM? Lúc này đã nên thực hiện được cơ chế lãisuất cho vay thỏa thuận đối với mọi đối tượng vay vốn chưa? Với chênh lệch đầuvào và đầu ra như vậy, mức độ rủi ro đối với các NHTM sẽ được xử lý thế nào?Về vấn đề này còn có ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị nên bỏ trần lãi suất chovay. Chúng tôi cho rằng việc bỏ trần lãi suất cho vay là điều nên làm để mang lạitính thị trường cho lãi suất, nhưng phải chọn thời điểm thích hợp, để tránh gây xốcđối với nền kinh tế. Để bỏ được trần lãi suất cho vay, để các ngân hàng kinhdoanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường, rất cần phải phát triển thị trườngvốn một cách ổn định, minh bạch; đi đôi với việc tăng cường vai trò kiểm soát củaNHNN trong việc đảm bảo tính thanh khoản cũng như phát huy vai trò người chovay cuối cùng đối với các NHTM. Thời gian qua, không ít các DN Việt nam tiếpnhận tín dụng rẻ qua việc hỗ trợ lãi suất. Gói hỗ trợ ngắn hạn sẽ được kết thúc vàocuối năm, lúc đó nếu không có sự chuẩn bị trước cho DN, sẽ dẫn đến “sốc” dokhông còn ưu đãi từ phía Nhà nước. Như vậy trong lúc này, nếu đặt vấn đề bỏ trầntối đa lãi suất cho vay dễ dẫn đến những bất ổn do mất cân đối giữ cung và cầuvốn. Do đó để tiến tới bỏ trần lãi suất, để tránh cú sốc về lãi suất đối với nền kinhtế, thì rất cần có “bước đệm” bằng gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn thứ hai với qui mônhỏ hơn, thời gian hỗ trợ ngắn hơn, đối tượng hỗ trợ hẹp hơn (DN nhỏ & vừa cóchỗ đứng ở thị trường nội địa; Hộ nông dân sản xuất kinh doanh) với lãi suất hỗtrợ thấp hơn (2% và 1%/ năm cho các đối tượng khác nhau).Mặt khác do chênh lệch lãi suất bình quân đầu vào và đầu ra của nhiều ngân hàngrất thấp (trên 1.0%), trong khi lãi suất trên thị trường vẫn có xu hướng tăng, điềunày cho thấy nền kinh tế đang có nhu cầu hấp thụ vốn, các ngân hàng vẫn đangphải lo vốn cả ngắn, trung và dài hạn. Để phát triển ổn định, các NHTM đã mởrộng cho vay tiêu dùng, chứng khoán - lĩnh vực hàm chứa nhiều rủi ro và đượcNHNN cho phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận. Song do nhu cầu vốn của DNcho sản xuất kinh doanh và để giữ các khách hàng truyền thống, các NHTM vẫnphải cho vay. Nhưng để bù đắp các chi phí đầu vào, buộc các NHTM phải thu mộtsố khoản phí trong hoạt động vay vốn của khách hàng. Vì vậy, để giảm rủi rotrong hoạt động tín dụng do chênh lệch quá thấp, để sản phẩm tín dụng vẫn là sảnphẩm cơ bản, không coi là “sản phẩm bán kèm”, trong điều kiện vẫn khống chế lãisuất cho vay bằng trần cho vay tối đa, thì nên qui định thống nhất một số loại phíhợp lý trong hoạt động tín dụng theo thông lệ (ví dụ: Phí trả nợ trước hạn/ hay phívi phạm hợp đồng; phí thu xếp vốn, phí quản lý…) để tránh tình trạng mỗiNHTM có cách tính phí khác nhau. Khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn, lãi suấtbiến động quá mạnh (như năm 2008 và 3 tháng đầu năm 2009), NHNN khó kiểmsoát lãi suất cho v ...

Tài liệu được xem nhiều: