![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Sử dụng hình thái đá tai định loại một số loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.21 MB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này đánh giá tính chính xác của việc định loại tám loài cá (thuộc bảy giống, năm họ và ba bộ) dựa trên đặc điểm hình thái của đá tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Kết quả nghiên cứu cho thấy hình thái đá tai có thể được sử dụng để bổ sung cho mục đích định loại cá.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng hình thái đá tai định loại một số loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II SỬ DỤNG HÌNH THÁI ĐÁ TAI ĐỊNH LOẠI MỘT SỐ LOÀI CÁ VÙNG HẠ LƯU SÔNG MÊ KÔNG Vũ Vi An1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Nguyễn Văn Phụng1 TÓM TẮT Nghiên cứu này đánh giá tính chính xác của việc định loại tám loài cá (thuộc bảy giống, năm họ và ba bộ) dựa trên đặc điểm hình thái của đá tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Kết quả nghiên cứu cho thấy hình thái đá tai có thể được sử dụng để bổ sung cho mục đích định loại cá. Tính chính xác đạt 91% đối với định loại tới mức loài, 95% ở mức giống và 97% ở mức họ. Trong tám loài cá nghiên cứu, cá Lưỡi trâu (Cynoglossus lingua) được định loại chính xác 100%, các loài cá còn lại (Plotosus canius, Pangasius krempfi, P. elongatus, Arius maculatus, Cephalocassis borneensis, Osteogeneiosus militaris, và Boesemania microlepis) đạt độ chính xác thấp hơn (≥ 84%). Những ứng dụng định loại bằng đá tai được thảo luận trong bài báo này: đánh giá đa dạng sinh học, xác định quần đàn, phổ thức ăn và khảo cổ học. Mặc dù định loại cá dựa vào đá tai không thể đạt chính xác tuyệt đối, nhưng phương pháp này được sử dụng để định loại cá trong một số trường hợp khi cá thể không còn nguyên vẹn hay chỉ thu được mỗi đá tai. Từ khóa: đá tai, hình thái, định loại cá, sông Mê Kông. I. GIỚI THIỆU ở vùng nhiệt đới chưa được ứng dụng phổ biến Chức năng đá tai của cá là để nghe, định so với vùng ôn đới vì nhiều nguyên nhân khác hướng và giữ thăng bằng (Campana 1999; nhau. Ví dụ đối với việc xác định tuổi, mùa vụ Wright et al., 2002). Mỗi cá thể có ba cặp đá tai ở vùng nhiệt đới biến động không rõ rệt so với (sagitta, lapilli, asterisci). Vị trí đá tai nằm trong vùng ôn đới, điều này dẫn đến vòng tuổi trong hốc dưới não cá, mỗi bên có ba đá tai (Hình 1). đá tai không được thể hiện rõ ràng (Campana, Hình dáng và kích thước của ba cặp đá tai này 1999; Morales-Nin & Panfili, 2002; Panfili et rất khác nhau trong cùng loài. Thông thường, al., 2009). Trong khi đó, các trang thiết bị phục cặp đá tai lapilli có kích thước lớn nhất đối với vụ cho việc nghiên cứu sự di cư của cá thông cá thuộc liên bộ Ostariophysi như họ cá Chép qua thành phần hóa học của đá tai khá đắt tiền, (Cyprinidae) và họ cá Tra (Pangasiidae), trong và cũng phức tạp trong cách sử dụng. Do đó, khi đó cặp đá tai sagitta là lớn nhất đối với loài chưa có cơ quan nào đầu tư các trang thiết bị cá khác (Long & Stewart, 2010). này ở Việt Nam. Cho đến nay chỉ có hai công Đá tai được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực trình nghiên cứu cá di cư dựa vào đá tai, nhưng như xác định tuổi, xác định quần đàn, di cư qua tất cả mẫu đá tai được phân tích ở nước ngoài lại giữa các thủy vực khác nhau, đánh giá biến (Yokouchi et al., 2018; Tran et al., 2019). Cho động về nhiệt độ và độ mặn nơi cá sinh trưởng, nên lĩnh vực nghiên cứu này còn có những hạn ô nhiễm, xác định cá có nguồn gốc tự nhiên hay chế nhất định. do cá thả bổ sung (Campana, 1999; Ranaldi & Gagnon, 2010; Carlson et al., 2016; Hermann et al., 2016). Nói chung, nghiên cứu về đá tai 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: anria2@yahoo.com 62 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 1. Vị trí đá tai trong cơ thể cá (a); hệ thống ống dẫn giữa các đá tai (b); đá tai bên trái (c); đá tai bên phải (d) Nguồn: (Secor et al., 1992; Deng et al., 2011). Hiện nay có một số nghiên cứu về hình xác của việc định loại này chưa được đánh giá. thái đá tai đã được thực hiện ở vùng Đồng bằng Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá độ sông Cửu Long (Nguyễn Quốc Sơn, 2011; Võ tin cậy của việc định loại cá dựa vào hình thái đá Văn Khoan, 2011; Hà Phước Hùng & Hồ Kim tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Bên Lợi, 2013) và một số vùng biển của Việt Nam cạnh đó, những ứng dụng của việc định loại cá (Cao Văn Hùng, 2012; Trần Văn Cường, 2012). bằng đá tai được thảo luận trong bài báo này. Đáng chú ý nhất là nghiên cứu của Hà Phước Hùng & Hồ Kim Lợi (2013), theo đó nhóm tác II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP giả này đã nghiên cứu hình thái 26 loài cá thuộc NGHIÊN CỨU họ cá Chép, và được sắp xếp thành ba nhóm có Cá được thu từ khu vực thác Khone (Lào) hình dạng khác nhau. Dựa vào các đặc điểm dọc theo sông Mê Kông đến cửa sông Mê Kông khác nhau này, tác giả đã xây dựng “khóa phân (Hình 2). Tổng cộng tám loài cá (đại diện cho loại” để định loại đến mức giống. Tương tự, một năm họ và ba bộ) được thu trực tiếp từ ngư dân số nghiên cứu trên thế giới cũng đã khẳng định và các chợ địa phương (Bảng 1). Đây là những điều này (Wang et al., 2010; De La Cruz-Agüero loài cá khá phổ biến, đa dạng về thích thước giữa et al., 2012). Mặc dù đã có một số nghiên cứu các loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông. Mỗi loài về hình thái đá tai ở Việt Nam, nhưng tính chính thu tối thiểu 30 cá thể trưởng thành. Đối với cá TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 63 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II thu ở chợ, vị trí thu mẫu được ước lượng dựa trước khi lấy đá tai. Cặp đá tai to nhất được thu vào thông tin từ người dân địa phương. Chiều thập và lưu trữ theo các hướng dẫn hiện hành dài “chạc” đối với cá có đuôi chẻ hoặc chiều dài (Campana, 2005; Kerr & Campana, 2014). tổng cộng đối với cá có dạng đuôi bầu được đo ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng hình thái đá tai định loại một số loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II SỬ DỤNG HÌNH THÁI ĐÁ TAI ĐỊNH LOẠI MỘT SỐ LOÀI CÁ VÙNG HẠ LƯU SÔNG MÊ KÔNG Vũ Vi An1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Nguyễn Văn Phụng1 TÓM TẮT Nghiên cứu này đánh giá tính chính xác của việc định loại tám loài cá (thuộc bảy giống, năm họ và ba bộ) dựa trên đặc điểm hình thái của đá tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Kết quả nghiên cứu cho thấy hình thái đá tai có thể được sử dụng để bổ sung cho mục đích định loại cá. Tính chính xác đạt 91% đối với định loại tới mức loài, 95% ở mức giống và 97% ở mức họ. Trong tám loài cá nghiên cứu, cá Lưỡi trâu (Cynoglossus lingua) được định loại chính xác 100%, các loài cá còn lại (Plotosus canius, Pangasius krempfi, P. elongatus, Arius maculatus, Cephalocassis borneensis, Osteogeneiosus militaris, và Boesemania microlepis) đạt độ chính xác thấp hơn (≥ 84%). Những ứng dụng định loại bằng đá tai được thảo luận trong bài báo này: đánh giá đa dạng sinh học, xác định quần đàn, phổ thức ăn và khảo cổ học. Mặc dù định loại cá dựa vào đá tai không thể đạt chính xác tuyệt đối, nhưng phương pháp này được sử dụng để định loại cá trong một số trường hợp khi cá thể không còn nguyên vẹn hay chỉ thu được mỗi đá tai. Từ khóa: đá tai, hình thái, định loại cá, sông Mê Kông. I. GIỚI THIỆU ở vùng nhiệt đới chưa được ứng dụng phổ biến Chức năng đá tai của cá là để nghe, định so với vùng ôn đới vì nhiều nguyên nhân khác hướng và giữ thăng bằng (Campana 1999; nhau. Ví dụ đối với việc xác định tuổi, mùa vụ Wright et al., 2002). Mỗi cá thể có ba cặp đá tai ở vùng nhiệt đới biến động không rõ rệt so với (sagitta, lapilli, asterisci). Vị trí đá tai nằm trong vùng ôn đới, điều này dẫn đến vòng tuổi trong hốc dưới não cá, mỗi bên có ba đá tai (Hình 1). đá tai không được thể hiện rõ ràng (Campana, Hình dáng và kích thước của ba cặp đá tai này 1999; Morales-Nin & Panfili, 2002; Panfili et rất khác nhau trong cùng loài. Thông thường, al., 2009). Trong khi đó, các trang thiết bị phục cặp đá tai lapilli có kích thước lớn nhất đối với vụ cho việc nghiên cứu sự di cư của cá thông cá thuộc liên bộ Ostariophysi như họ cá Chép qua thành phần hóa học của đá tai khá đắt tiền, (Cyprinidae) và họ cá Tra (Pangasiidae), trong và cũng phức tạp trong cách sử dụng. Do đó, khi đó cặp đá tai sagitta là lớn nhất đối với loài chưa có cơ quan nào đầu tư các trang thiết bị cá khác (Long & Stewart, 2010). này ở Việt Nam. Cho đến nay chỉ có hai công Đá tai được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực trình nghiên cứu cá di cư dựa vào đá tai, nhưng như xác định tuổi, xác định quần đàn, di cư qua tất cả mẫu đá tai được phân tích ở nước ngoài lại giữa các thủy vực khác nhau, đánh giá biến (Yokouchi et al., 2018; Tran et al., 2019). Cho động về nhiệt độ và độ mặn nơi cá sinh trưởng, nên lĩnh vực nghiên cứu này còn có những hạn ô nhiễm, xác định cá có nguồn gốc tự nhiên hay chế nhất định. do cá thả bổ sung (Campana, 1999; Ranaldi & Gagnon, 2010; Carlson et al., 2016; Hermann et al., 2016). Nói chung, nghiên cứu về đá tai 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: anria2@yahoo.com 62 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 1. Vị trí đá tai trong cơ thể cá (a); hệ thống ống dẫn giữa các đá tai (b); đá tai bên trái (c); đá tai bên phải (d) Nguồn: (Secor et al., 1992; Deng et al., 2011). Hiện nay có một số nghiên cứu về hình xác của việc định loại này chưa được đánh giá. thái đá tai đã được thực hiện ở vùng Đồng bằng Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá độ sông Cửu Long (Nguyễn Quốc Sơn, 2011; Võ tin cậy của việc định loại cá dựa vào hình thái đá Văn Khoan, 2011; Hà Phước Hùng & Hồ Kim tai bằng phương pháp phân tích thống kê. Bên Lợi, 2013) và một số vùng biển của Việt Nam cạnh đó, những ứng dụng của việc định loại cá (Cao Văn Hùng, 2012; Trần Văn Cường, 2012). bằng đá tai được thảo luận trong bài báo này. Đáng chú ý nhất là nghiên cứu của Hà Phước Hùng & Hồ Kim Lợi (2013), theo đó nhóm tác II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP giả này đã nghiên cứu hình thái 26 loài cá thuộc NGHIÊN CỨU họ cá Chép, và được sắp xếp thành ba nhóm có Cá được thu từ khu vực thác Khone (Lào) hình dạng khác nhau. Dựa vào các đặc điểm dọc theo sông Mê Kông đến cửa sông Mê Kông khác nhau này, tác giả đã xây dựng “khóa phân (Hình 2). Tổng cộng tám loài cá (đại diện cho loại” để định loại đến mức giống. Tương tự, một năm họ và ba bộ) được thu trực tiếp từ ngư dân số nghiên cứu trên thế giới cũng đã khẳng định và các chợ địa phương (Bảng 1). Đây là những điều này (Wang et al., 2010; De La Cruz-Agüero loài cá khá phổ biến, đa dạng về thích thước giữa et al., 2012). Mặc dù đã có một số nghiên cứu các loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông. Mỗi loài về hình thái đá tai ở Việt Nam, nhưng tính chính thu tối thiểu 30 cá thể trưởng thành. Đối với cá TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 63 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II thu ở chợ, vị trí thu mẫu được ước lượng dựa trước khi lấy đá tai. Cặp đá tai to nhất được thu vào thông tin từ người dân địa phương. Chiều thập và lưu trữ theo các hướng dẫn hiện hành dài “chạc” đối với cá có đuôi chẻ hoặc chiều dài (Campana, 2005; Kerr & Campana, 2014). tổng cộng đối với cá có dạng đuôi bầu được đo ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nuôi trồng thủy sản Bài viết về ngư nghiệp Định loại cá Loài cá vùng hạ lưu sông Mê Kông Cá Lưỡi trâuTài liệu liên quan:
-
78 trang 350 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 269 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 246 0 0 -
225 trang 224 0 0
-
2 trang 205 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 200 0 0 -
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 186 0 0 -
13 trang 182 0 0
-
91 trang 176 0 0
-
8 trang 159 0 0