Sự già hóa dân số và những thành tựu ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 203.44 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong bất kỳ một ngành kinh tế, một mô hình sản xuất nào cũng cần phải có một lực lượng lao động nhất định. Thông qua lao động và sự hưởng thụ các thành quả lao động, con người tiếp tục phát triển ở trình độ cao hơn về thể trạng, sức khoẻ, nhận thức về tự nhiên, về xã hội, tư tưởng, tình cảm, những mối quan hệ, về khả năng tác động vào tự nhiên và cả trình độ hưởng thụ sản phẩm lao động của con người.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự già hóa dân số và những thành tựu ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ - Sè 2(46) Tập 1/N¨m 2008 SỰ GIÀ HOÁ DÂN SỐ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Lê Tiến Dũng (ĐH Thái Nguyên) 1. Đặt vấn đề Con người là chủ thể của xã hội, là động lực sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, đồng thời con người lại là đối tượng tiêu thụ những sản phNm của mình làm ra. Chính những hoạt động đó đã quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nói cách khác, con người vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu dùng. Trong bất kỳ một ngành kinh tế, một mô hình sản xuất nào cũng cần phải có một lực lượng lao động nhất định. Thông qua lao động và sự hưởng thụ các thành quả lao động, con người tiếp tục phát triển ở trình độ cao hơn về thể trạng, sức khoẻ, nhận thức về tự nhiên, về xã hội, tư tưởng, tình cảm, những mối quan hệ, về khả năng tác động vào tự nhiên và cả trình độ hưởng thụ sản phNm lao động của con người. Đó chính là sự phát triển của xã hội. Do đó, trong xã hội hiện đại và phát triển, việc xây dựng mọi kế hoạch hàng năm, từng thời kỳ hoặc hoạch định những chính sách chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, về sản xuất, dịch vụ, mở rộng thị trường, chăm sóc đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần, sức khoẻ..., kể cả việc xây dựng và thực thi chính sách dân số phù hợp cho một cộng đồng người không thể không căn cứ vào những thông tin xác thực về quy mô, cơ cấu, đặc biệt là yếu tố về giới và tuổi của dân số hiện tại cũng như những thông tin dự báo “bức tranh” dân số trong tương lai. Trong dân số học, cơ cấu dân số của quốc gia hay lãnh thổ là một trong những đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Cơ cấu dân số là sự xác định thành các bộ phận dân số khác nhau của một dân số theo những đặc trưng nhất định. Ví dụ phân chia thành các bộ phận dân số theo giới ta sẽ có cơ cấu giới tính của dân số, hoặc phân chia theo tiêu chí độ tuổi sẽ có cơ cấu dân số theo độ tuổi, tương tự như vậy còn có cơ cấu dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, mức sống hay cơ cấu dân số phân theo ngành kinh tế... Trong tất cả các cơ cấu thì cơ cấu dân số theo giới tính và cơ cấu dân số theo độ tuổi (còn gọi là cơ cấu tự nhiên hoặc cơ cấu sinh học) có ý nghĩa nền tảng, được quan tâm nghiên cứu, được sử dụng trong phân tích dân số và những vấn đề liên quan. Bởi vì cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi phản ánh bức tranh tổng quát về mức sinh, mức chết và tốc độ gia tăng dân số của nhiều thế hệ, trong đó có các thế hệ mới sinh trong vòng 5-10 năm gần đây. Những kết quả nghiên cứu cơ cấu dân số theo giới tính sẽ là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội cho mỗi quốc gia, như phân công lao động xã hội, nghiên cứu về khối lượng, cơ cấu vật phNm tiêu dùng và các loại dịch vụ. Vì thực tế có sự khác nhau rất lớn về thiên hướng, năng lực và sự phù hợp theo giới đối với các nghề nghiệp trong nền kinh tế, cũng như có những sự khác nhau rõ rệt, như về mặt hàng, giá trị, chi phí, loại dịch vụ... trong nhu cầu tiêu thụ giữa trẻ em và phụ nữ với người già và nam giới... 2. Sự biến động mức sinh của dân số Việt Nam những năm gần đây Với dân số năm 2007 đạt 85,2 triệu người, Việt Nam là một trong những quốc gia có quy mô dân số lớn, đứng thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á, thứ 13 trên thế giới. So với diện tích lãnh thổ, tiềm năng và đặc biệt là trình độ phát triển kinh tế như hiện nay thì với một quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng nhanh đã làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia hiếm đất, gây nên rất nhiều khó khăn cho việc cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Nhìn thấy trước những vấn đề 59 T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ - Sè 2(46) Tập 1/N¨m 2008 này, ngay từ những năm đầu bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chính phủ đã đề ra và thực hiện một chính sách giảm sinh để duy trì quy mô gia đình nhỏ, ít con để nuôi dạy cho tốt. Vào những thập kỷ cuối của thế kỉ XX đến nay, Việt Nam liên tục có nhiều biện pháp kiên quyết nhằm thực hiện chính sách kiểm soát sinh đẻ một cách hữu hiệu để giảm tốc độ gia tăng tự nhiên dân số. Ngày 14 tháng 1 năm 1993, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII ra Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Triển khai thực hiện Nghị quyết đó, Chương trình Dân số và Kế hoạch hoá gia đình đã đạt được nhiều thành tích tốt, cụ thể: - Khống chế được tốc độ độ gia tăng dân số quá nhanh của thời kỳ trước. - Giảm được số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (còn gọi là tổng tỷ suất sinh – TFR) từ 3,5 con năm 1992 xuống dưới 2,3 con năm 2000 và tốc độ gia tăng dân số giảm tương ứng từ trên 2,2% xuống còn 1,35%. Đặc biệt trong giai đoạn 1996 – 2000, mức sinh ở nước ta giảm rất mạnh, trung bình mỗi năm tỷ suất sinh thô giảm tới khoảng 0,7‰. Do đó, so sánh quy mô dân số trung bình năm 2000 của Việt Nam là 77,6 triệ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự già hóa dân số và những thành tựu ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ - Sè 2(46) Tập 1/N¨m 2008 SỰ GIÀ HOÁ DÂN SỐ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Lê Tiến Dũng (ĐH Thái Nguyên) 1. Đặt vấn đề Con người là chủ thể của xã hội, là động lực sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, đồng thời con người lại là đối tượng tiêu thụ những sản phNm của mình làm ra. Chính những hoạt động đó đã quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nói cách khác, con người vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu dùng. Trong bất kỳ một ngành kinh tế, một mô hình sản xuất nào cũng cần phải có một lực lượng lao động nhất định. Thông qua lao động và sự hưởng thụ các thành quả lao động, con người tiếp tục phát triển ở trình độ cao hơn về thể trạng, sức khoẻ, nhận thức về tự nhiên, về xã hội, tư tưởng, tình cảm, những mối quan hệ, về khả năng tác động vào tự nhiên và cả trình độ hưởng thụ sản phNm lao động của con người. Đó chính là sự phát triển của xã hội. Do đó, trong xã hội hiện đại và phát triển, việc xây dựng mọi kế hoạch hàng năm, từng thời kỳ hoặc hoạch định những chính sách chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, về sản xuất, dịch vụ, mở rộng thị trường, chăm sóc đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần, sức khoẻ..., kể cả việc xây dựng và thực thi chính sách dân số phù hợp cho một cộng đồng người không thể không căn cứ vào những thông tin xác thực về quy mô, cơ cấu, đặc biệt là yếu tố về giới và tuổi của dân số hiện tại cũng như những thông tin dự báo “bức tranh” dân số trong tương lai. Trong dân số học, cơ cấu dân số của quốc gia hay lãnh thổ là một trong những đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Cơ cấu dân số là sự xác định thành các bộ phận dân số khác nhau của một dân số theo những đặc trưng nhất định. Ví dụ phân chia thành các bộ phận dân số theo giới ta sẽ có cơ cấu giới tính của dân số, hoặc phân chia theo tiêu chí độ tuổi sẽ có cơ cấu dân số theo độ tuổi, tương tự như vậy còn có cơ cấu dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, mức sống hay cơ cấu dân số phân theo ngành kinh tế... Trong tất cả các cơ cấu thì cơ cấu dân số theo giới tính và cơ cấu dân số theo độ tuổi (còn gọi là cơ cấu tự nhiên hoặc cơ cấu sinh học) có ý nghĩa nền tảng, được quan tâm nghiên cứu, được sử dụng trong phân tích dân số và những vấn đề liên quan. Bởi vì cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi phản ánh bức tranh tổng quát về mức sinh, mức chết và tốc độ gia tăng dân số của nhiều thế hệ, trong đó có các thế hệ mới sinh trong vòng 5-10 năm gần đây. Những kết quả nghiên cứu cơ cấu dân số theo giới tính sẽ là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội cho mỗi quốc gia, như phân công lao động xã hội, nghiên cứu về khối lượng, cơ cấu vật phNm tiêu dùng và các loại dịch vụ. Vì thực tế có sự khác nhau rất lớn về thiên hướng, năng lực và sự phù hợp theo giới đối với các nghề nghiệp trong nền kinh tế, cũng như có những sự khác nhau rõ rệt, như về mặt hàng, giá trị, chi phí, loại dịch vụ... trong nhu cầu tiêu thụ giữa trẻ em và phụ nữ với người già và nam giới... 2. Sự biến động mức sinh của dân số Việt Nam những năm gần đây Với dân số năm 2007 đạt 85,2 triệu người, Việt Nam là một trong những quốc gia có quy mô dân số lớn, đứng thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á, thứ 13 trên thế giới. So với diện tích lãnh thổ, tiềm năng và đặc biệt là trình độ phát triển kinh tế như hiện nay thì với một quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng nhanh đã làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia hiếm đất, gây nên rất nhiều khó khăn cho việc cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Nhìn thấy trước những vấn đề 59 T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ - Sè 2(46) Tập 1/N¨m 2008 này, ngay từ những năm đầu bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chính phủ đã đề ra và thực hiện một chính sách giảm sinh để duy trì quy mô gia đình nhỏ, ít con để nuôi dạy cho tốt. Vào những thập kỷ cuối của thế kỉ XX đến nay, Việt Nam liên tục có nhiều biện pháp kiên quyết nhằm thực hiện chính sách kiểm soát sinh đẻ một cách hữu hiệu để giảm tốc độ gia tăng tự nhiên dân số. Ngày 14 tháng 1 năm 1993, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII ra Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Triển khai thực hiện Nghị quyết đó, Chương trình Dân số và Kế hoạch hoá gia đình đã đạt được nhiều thành tích tốt, cụ thể: - Khống chế được tốc độ độ gia tăng dân số quá nhanh của thời kỳ trước. - Giảm được số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (còn gọi là tổng tỷ suất sinh – TFR) từ 3,5 con năm 1992 xuống dưới 2,3 con năm 2000 và tốc độ gia tăng dân số giảm tương ứng từ trên 2,2% xuống còn 1,35%. Đặc biệt trong giai đoạn 1996 – 2000, mức sinh ở nước ta giảm rất mạnh, trung bình mỗi năm tỷ suất sinh thô giảm tới khoảng 0,7‰. Do đó, so sánh quy mô dân số trung bình năm 2000 của Việt Nam là 77,6 triệ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí khoa học Sự già hóa dân số Phát triển kinh tế xã hội Lực lượng lao động Lao động sản xuấtGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 294 0 0
-
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 269 0 0 -
5 trang 232 0 0
-
10 trang 211 0 0
-
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 208 0 0 -
6 trang 205 0 0
-
8 trang 203 0 0
-
Khảo sát, đánh giá một số thuật toán xử lý tương tranh cập nhật dữ liệu trong các hệ phân tán
7 trang 202 0 0 -
Khách hàng và những vấn đề đặt ra trong câu chuyện số hóa doanh nghiệp
12 trang 199 0 0 -
9 trang 167 0 0