Danh mục

Sự hiện diện của Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính và hiện trạng sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh trên tôm nuôi tại đồng bằng sông Cửu Long

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 352.05 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát tỷ lệ nhiễm Vibrio parahaemolyticus và đánh giá hiện trạng kháng kháng sinh của V. parahaemolyticus tại ĐBSCL. Nghiên cứu được thực hiện qua điều tra việc sử dụng kháng sinh tại 76 ao tôm thẻ và tôm sú nuôi thương phẩm và xác định sự hiện diện của V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND trong tổng số 396 mẫu tôm, nước và bùn thu ở ĐBSCL.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự hiện diện của Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính và hiện trạng sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh trên tôm nuôi tại đồng bằng sông Cửu Long VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II SỰ HIỆN DIỆN CỦA Vibrio parahaemolyticus GÂY BỆNH HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP TÍNH VÀ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG KHÁNG SINH VÀ KHÁNG KHÁNG SINH TRÊN TÔM NUÔI TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Nguyễn Diễm Thư1*, Lê Hồng Phước1, Nguyễn Thị Hiền1, Nguyễn Hồng Lộc1, Mã Tú Lan1 TÓM TẮT Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) gây ra bởi vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus đã gây thiệt hại kinh tế đáng kể trong nghề nuôi tôm tại Việt Nam. Nghiên cứu trước cho thấy V. parahaemolyti- cus kháng với nhiều loại kháng sinh do việc lạm dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi trồng thủy sản. Hiện tại có ít thông tin về hiện trạng sử dụng thuốc kháng sinh và tần số xuất hiện của V. parahaemolyticus trong tôm nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát tỷ lệ nhiễm Vibrio parahaemolyticus và đánh giá hiện trạng kháng kháng sinh của V. parahaemolyticus tại ĐBSCL. Nghiên cứu được thực hiện qua điều tra việc sử dụng kháng sinh tại 76 ao tôm thẻ và tôm sú nuôi thương phẩm và xác định sự hiện diện của V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND trong tổng số 396 mẫu tôm, nước và bùn thu ở ĐBSCL. 47 chủng V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND phân lập được thử kháng sinh đồ với 13 loại kháng sinh. Kết quả cho thấy sự hiện diện của V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND là 12,37% trong tổng số 396 mẫu (tôm, nước và bùn). Kết quả điều tra cho thấy oxytetracycline, doxycycline và enrofloxacin là ba loại kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất trong tôm nuôi. Các chủng V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND có tỉ lệ kháng khá cao với amoxicillin (80,85%) và ampicillin (78,72%), vì vậy không nên sử dụng hai loại kháng sinh này trong điều trị bệnh AHPND do V. parahaemolyticus. Từ khóa: Vibrio parahaemolyticus gây bệnh AHPND, kháng sinh, kháng kháng sinh, tôm nuôi. I. ĐẶT VẤN ĐỀ hoặc ruột bị đứt đoạn, bơi xoắn ốc, lỏng vỏ, màu Vibrio parahaemolyticus mang gen độc, tác sắc nhợt nhạt. Tôm bệnh cũng cho thấy các dấu nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) hiệu gan bất thường như gan teo, nhỏ, gan sưng, hay hội chứng chết sớm (EMS), đã gây ra thiệt màu đen hoặc nhạt màu (Lightner et al., 2013; hại kinh tế đáng kể trong các trang trại nuôi tôm. Zorriehzahra & Banaederakhshan, 2015). Bệnh thường xảy ra khoảng 8 ngày sau khi thả Tần suất nhiễm bệnh thường xảy ra nhiều giống, phát triển một cách nhanh chóng và gây hơn trong hệ thống nuôi tôm thâm canh nên chết nghiêm trọng trong 20 đến 30 ngày nuôi thường đòi hỏi việc sử dụng kháng sinh trong đầu (Han et al., 2015). Triệu chứng lâm sàng điều trị bệnh. Sử dụng kháng sinh không đúng tôm bệnh bao gồm tăng trưởng chậm, ruột rỗng liều lượng trong phòng trị bệnh nhiễm khuẩn 1 Trung tâm Quan trắc Môi trường & Bệnh Thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: thu_seven@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 75 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II trong nuôi trồng thủy sản được cho là có liên trên môi trường TCBS (thiosulfate citrate bile quan dẫn đến sự kháng thuốc của vi khuẩn salts sucrose agar) được lựa chọn và xác nhận (Elmahdi et al., 2016). Các thông tin hiện tại về V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND bằng việc sử dụng thuốc kháng sinh trong tôm nuôi phương pháp duplex PCR. Quy trình duplex PCR và tần suất hiện diện của V. parahaemolyticus sử dụng theo phương pháp của Han et al., (2015) gây bệnh AHPND còn rất hạn chế ở ĐBSCL, nhằm phát hiện hai gen gây độc pirA và pirB với Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm xác định tần các cặp mồi VpPirA-284F/R (VpPirA-284F: suất xuất hiện của V. parahaemolyticus gây 5’-TGACTATTCTCACGATTGGACTG-3’, bệnh AHPND trên các mẫu tôm, mẫu nước và VpPirA-284R: 5’-CACGACTAGCGCCATTG mẫu bùn thu từ ao nuôi tôm; đánh giá việc sử TTA-3’) và VpPirB-392F/R (VpPirB-392F: dụng kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho 5 ’ - T G AT G A A G T G AT G G G T G C T C - 3 ’ , tôm nuôi; ngoài ra việc thử kháng sinh đồ các VpPirB-392R: 5’-TGTAAGCGCCGTTTAAC chủng V. parahaemolyticus gây bệnh AHPND TCA-3’). Quy trình duplex PCR gồm giai đoạn nhằm lựa chọn kháng sinh phù hợp cho việc biến tính ban đầu ở 94°C trong 3 phút, tiếp theo điều trị loại bệnh này trên tôm. là 35 chu kỳ của 94°C trong 30 giây, 60°C trong 30 giây, và 72°C trong 30 giây; và giai đoạn II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP cuối ở 72°C trong 7 phút. 2.1. Điều tra việc sử dụng kháng sinh và 2.3. Phương pháp thử kháng sinh đồ thu mẫu Thử nghiệm kháng sinh đồ trên V. Điều tra phỏng vấn được thực hiện với các parahaemolyticus được thực hiện theo phương chủ trang trại hoặc nhân viên kỹ thuật của 76 pháp khuếch tán đĩa thạch (Tendencia, 2004), ao nuôi tôm nuôi thương phẩm gồm 37 ao nuôi và theo hướng dẫn của Clinical and Laboratory tôm sú (Penaeus monodon) và 39 ao nuôi tôm Standards Institute ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: