Danh mục

Sử Trung Quốc Chương 5

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 146.77 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sử Trung QuốcChương VNhà Tần (221 - 206 TrCN) (Thời của pháp gia)1. Tần Thủy Hoàng Ở trên tôi đã nói đời Chiến Quốc có một thương nhân buôn cả vua. Thương nhân đó, Lã Bất Vi, có một người thiếp đẹp, khi biết nàng bắt đầu có mang đem dâng nàng cho một công tử của Tần làm con tin ở Triệu. Công tử đó về Tần làm vua, phong cho Lã làm tể tướng. Sau nàng hầu sinh con trai, vua Tần cho nối ngôi, tức Tần Thủy Hoàng....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử Trung Quốc Chương 5 Sử Trung Quốc Chương V Nhà Tần (221 - 206 TrCN) (Thời của pháp gia) 1. Tần Thủy Hoàng Ở trên tôi đã nói đời Chiến Quốc có một thương nhân buôn cả vua. Thương nhân đó, Lã Bất Vi, có một người thiếp đẹp, khi biết nàng bắt đầu có mang đem dâng nàng cho một công tử của Tần làm con tin ở Triệu. Công tử đó về Tần làm vua,phong cho Lã làm tể tướng. Sau nàng hầu sinh con trai, vua Tần cho nối ngôi, tứcTần Thủy Hoàng. Hồi Tần Thủy Hoàng còn nhỏ, Lã nhiếp chính. Lần đó là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một thứ dân con buôn được cầm quyền chính như vậy. Không rõ ông ta buôn gì mà mau giàu như vậy - có lẽ là buôn ngựa - nhưngông ta có học chút ít, thích bọn thi, thư, chủ trương chính sách hoà bình. Lớn lênTần Thủy Hoàng bãi chức ông ta mà dùng Lý Tư. Trong thời làm tể tướng, Lã bảo các môn khách chung nhau soạn bộ Lã Thị Xuân Thu, gần như một sử tư tưởng, học thuật cuối thời Chiến Quốc.Tần Thủy Hoàng tư cách tầm thường, tính tình hung dữ, rất tin dị đoan. Các sử giađời sau đều theo Khổng học, rất chê ông ta, nhưng các sử gia phương Tây nhận ông là một trong những vĩ nhân cổ kim. Ông chỉ cầm quyền chưa đầy mười lăm nămmà làm cho nước Trung Hoa thay đổi hẳn, thống nhất về mọi mặt, mở mang thêm bờ cõi, thành một đế quốc lớn thời thượng cổ. 1 Ông cho rằng công đức của mình ngang với Tam Hoàng Ngũ Đế, nên thụ xưng là Hoàng Đế, hiệu là Thủy Hoàng, nghĩa là vị hoàng đế đầu tiên, và muốn cho concháu đời sau lấy danh hiệu: nhị thế, tam thế... cho đến vạn thế. Những danh từ xưng hô như trẫm, bệ hạ, đều do ông đặt ra. 2. Tổ chức hành chínhÔng bắt vương tộc sáu nước mà ông đã chiếm, cả gia đình các đại thần của họ nữa,phải dời lại Hàm Dương, kinh đô của Tần, như vậy để họ bị bứng hết rế, không sai ngóc đầu lên được. Đất đai của họ đem phát mãi hết.Ông chia đất của sáu nước thành quận, huyện. Thời Thương Ưởng, Tần đã chia làmnhiều huyện, mỗi huyện là một đơn vị hành chính trực thuộc triều đình, có một viên quan thu thuế. Sau lập thêm quận ở những miền mới chiếm được. Quận là mộtquân khu lớn, nhất là ở những miền mới chiếm được. Vì muốn thống nhất quốc gia, vua Tần bắt huyện tuỳ thuộc quận, mỗi quận gồm nhiều huyện, viên chủ quận là một võ quan. Sau tổ chức lại, mỗi quận gồm một quận thú coi về dân sự, và một quân uý coi về quân sự. Ở trên cả, có một viên giám ngự sử chỉ chịu trách nhiệmvới nhà vua, như vậy không một viên nào chuyên quyền được, không thể thành mộtông chúa như trong thời phong kiến. Thời Tần Thủy Hoàng, Trung Hoa chia thành 36 quận, cũng như tỉnh ngày nay. 3. Trọng nông 2 Tần theo Pháp gia[1] khuyến khích binh, nông; ghét công, thương. Muốn nắm hết cái lợi thương nghiệp, triều đình đày hết phú thương có những xưởng sản xuất sắt lại miền Thiểm Tây và miền Tứ Xuyên. Sử chép coi hai trăm ngàn gia đình phúthương, tiểu thương bị đày tại xứ Thục và miền An Dương, ở phía nam Lạc Dương ngày nay, chắc là để làm ruộng. Ngày nay có nước cũng áp dụng chính sách đó. Nông dân được ưu đãi. Đất không còn là sở hữu của nhà vua nữa, mà của ngườilàm ruộng. Người chủ ruộng có quyển bán ruọng và ai cũng có quyền mua. Chế độ đó gọi là danh điền, tạo nên một giới địa chủ; bọn đại địa chủ có những cơ sở rất lớn và dần dần thành một giai cấp có quyền hành tương tự như các chư hầu nhỏ thời trước, hoặc các lãnh chúa bên châu Âu thời trung cổ.Năm hay mười nhà họp nhau thành một liên gia, chịu chung trách nhiệm với nhau. Chế độ đó đem áp dụng ở khắp Trung Hoa cho tới đầu đời Hán. Tráng đinh nàocũng phải đi lính tới già. Gia đình nào có ba người đàn ông thì phải chia làm hai hộ. Hình luật tàn khốc hơn thời trước nhiều. 4. Thống nhất văn tự, đồ đo lường, tư tưởng Thời Chiến Quốc, mỗi miền có một ngôn ngữ, người nước Yên không hiểu tiếngnước Sở, người nước Triệu không biết tiếng nước Việt - mà ngày nay cũng còn tìnhtrạng người Quảng Đong ít học không hiểu nổi tiếng Bắc Kinh - Một viên quan Tầnphải đi cai trị một nước khác, không hiểu ngôn ngữ nước đó thì khó làm tròn nhiệm vụ được. Ngay đến chữ viết cũng vậy. Những gì thiên tử nhà Chu thông báo cho các chư hầu đều viết bằng thứ chữ đại triện; nhưng thứ chữ đó không phổ biến và kẻ sĩ các nước thường dùng một lối chữ khác. 3 Vì vậy tể tướng Lý Tư nghĩ tới việc thống nhất ngôn ngữ và văn tự. Chúng ta không biết ông thống nhất ngôn ngữ ra sao; về văn tự thì ông giản dị hoá lối đạitriện, quy định một lối viết khác gọi là tiểu triện, và lối này thành thông dụng trong toàn cõi Trung Hoa. Ông lại thống nhất các đồ cân, lường (cả nông cụ, cày bừa...), như vậy để dễ tínhthuế và thu thuế. Thuế trả bằng lúa, phải dùng thuyền, xe chở lại các quận và kinh đô. Cho nên lại phải thống nhất khoảng cách giữa hai bánh xe (xe đồng quy), nếu không thì những xe quá lớn vào những đường nhỏ không được. Quan trọng nhất là thống nhất tư tưởng. Về điểm này pháp gia (Lý Tư, Hàn Phi)chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử trước kia đã chủ trương thượng đồng, nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đình. Tần ghét nhất bọn nho sĩ, triết gia mở trường tư dạy đạo lý, chỉ trích chiếntranh và hình pháp tàn bạo. Tần chỉ muốn nhồi nặn dân chúng cho thành dễ bảo, rấtcó kỷ luật. Tư ...

Tài liệu được xem nhiều: