Danh mục

Sử Trung Quốc phần II chương 1

Số trang: 40      Loại file: pdf      Dung lượng: 286.11 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 19,000 VND Tải xuống file đầy đủ (40 trang) 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sử Trung QuốcPHẦN II-chương 1Thời Quân Chủ Giai đoạn đầu Hán thịnh, Hồ còn yếuTỔNG QUAN VỀ THỜI QUÂN CHỦ 1. Tần Thủy Hoàng chấm dứt thời phong kiến dài non ngàn năm và mở đầu thời Quân chủ đế quốc dài nhất trong lịch sử Trung Hoa, trên hai ngàn năm. Khi ông mất thì dân tộc Trung Hoa đã có đủ những yếu tố của một nền văn minh rực rỡ và đặc biệt: đất đai rất rộng mà liền một khối (khác hẳn đế quốc La Mã), bằng hai phần ba châu Âu ngày nay; dân số...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử Trung Quốc phần II chương 1 Sử Trung Quốc PHẦN II Thời Quân Chủ Giai đoạn đầu Hán thịnh, Hồ còn yếuTỔNG QUAN VỀ THỜI QUÂN CHỦ1. Tần Thủy Hoàng chấm dứt thời phong kiến dài non ngàn năm và mở đầu thờiQuân chủ đế quốc dài nhất trong lịch sử Trung Hoa, trên hai ngàn năm.Khi ông mất thì dân tộc Trung Hoa đã có đủ những yếu tố của một nền văn minhrực rỡ và đặc biệt: đất đai rất rộng mà liền một khối (khác hẳn đế quốc La Mã),bằng hai phần ba châu Âu ngày nay; dân số đông nhất thời đó: khoảng 40 triệungười; một tổ chức hành chánh tập quyền, mạnh về võ bị; một nền nông nghiệp tiếnbộ nhờ sự phát triển về thủy lợi; công nghiệp gồm đồ gốm, đồ đồng đời Thương rấtđẹp, đồ sắt rất bén; kiến trúc có một công trình đồ sộ: Vạn lí trường thành, nhiềuđường sá tốt, rộng, nhiều cung điện và lăng tẩm nguy nga (tiếc rằng nay không cònđấu vết vì hầu hết dùng gỗ làm vật liệu), nhất là một nền triết học rất nhân bản,thực tế mà nhiều vẻ; một nền văn học với những thơ văn bất hủ; và một nền khoahọc tuy còn bập bẹ, kém La Mã, nhưng cũng đã có một số phát minh... ấy là chưakể đến một lối chữ tượng hình, biểu ý không giống một lối nào.Nhà Hán, non một thế kỉ dò dẫm, tạo nên một chế độ quân chủ đặc biệt mà tôimuốn gọi là chế độ quân chủ sĩ trị, nghĩa là ngôi vua thì thế tập, truyền tử mà quanlại các cấp thì là kẻ sĩ được tuyển, chứ không ở trông giai cấp quí tộc như chế độquân chủ của phương Tây. Nền quân chủ đó tuy chuyên chế nhưng theo nguyên 1tắc, vẫn trọng ý dân, do các sử quan và gián quan phát biểu. Nó được các đời saucủng cố, mở rộng ra và sửa đổi tùy hoàn cảnh bên ngoài, nhưng những nét chính thìvẫn giữ đủ, khiến nhiều học giả phương Tây ngạc nhiên rằng trong khi các nền vănminh khác bị tiêu diệt thì nền văn minh Trung Hoa vẫn đứng vững, hơn nền vănminh Ấn Độ nữa. Dân tộc và văn hóa Trung Hoa có một sức kết hợp, một nguyênđộng lực ra sao mà có thời trong nước bị chia năm xẻ bảy, có thời lại bị ngoại nhâncai trị cả mấy trăm năm, mà khi lấy lại chủ quyền rồi, thống nhất lại rồi, thì nền vănhóa của họ vẫn thuần nhất. Hình như sau mỗi lần nguy kịch, họ được tiếp huyết đểrồi mạnh hơn trước. Họ biết mau thích hợp với hoàn cảnh, cương quyết tiếp thu cáimới mẻ của ngoại nhân, biết thích ứng mả vẫn giữ được căn bản của họ. Có lẽ nhưvậy là nhờ họ tin ở nòi giống của họ, ở số đông của họ, ở văn hóa đặc biệt của họ?Họ mạnh nhờ chữ viết của họ, đoàn kết họ với nhau. Họ tôn quân nhưng vua phảitrọng ý của họ, nếu không thì họ lật đổ. Hễ tài sản (đất đai) mà bất quân quá thì họnổi loạn và nhà cầm quyền lâu lâu phải tìm cách chia lại. Họ được truyền thống củađạo Khổng, coi trọng sự tu thân, tề gia và kính kẻ sĩ áo vải hơn cả những kẻ giàusang nhất trong nước.*2. Đọc lịch sử Trung Hoa thời Đế Quốc, tức thời Quân chú chuyên chế, chúng tathấy tất cả các triều đại chỉ lo đối phó với ba vấn đề:- Giữ được sự nội trị: thời thì theo chế độ quận quốc nửa phân quyền, nửa tậpquyền như đời Hán, đời Đường, giao bớt quyền hành trung ương cho các thân thíchhoặc đại thần tận trung để họ gần như tự ý cai trị các địa phương ở xa; thời thì tráilại, như đời Tống, đời Thanh, theo chế độ trung ương tập quyền, tước hết quyềnhành của thái thú địa phương, kiểm soát họ chặt chẽ để họ khỏi làm phản.- Phân phát đất đai cho dân cày để đừng có sự cách biệt quá giữa kẻ giàu và ngườinghèo, kẻ giàu khỏi có thế lực quá mạnh mà người nghèo khó điêu đứng đến nỗikhông còn sợ chết nữa, “đành bỏ thí cái thân mà cha mẹ vợ con trông cậy vào, đểlàm đạo tặc” (lời Tô Tuân); và nông dân Trung Hoa rất hay nổi loạn, thời nào cũng 2lập những hội kín để chống chính quyền.- Chống đỡ ngoại xâm ở hai mặt: bắc và tây, vì đông là biển, họ khỏi phải lo cho tớikhi tàu chiến của phương Tây vào hải phận họ; còn về phía nam, các dân tộc nhưViệt Nam, Miến Điện, đất hẹp, người ít, chuyên về nông nghiệp, ưa hòa bình,không làm cho họ phải bận tâm lắm, trái lại hễ lấn được là họ lấn. Trái lại về phíatây và phía bắc, các dân tộc hung hăng hiếu chiến, vẫn thường quấy nhiễu, uy hiếphọ nhiều lần, chinh phục được họ nữa; luôn luôn họ phải gian nan chống đỡ vàchính vì vậy mà họ mở mang thêm được đất đai như đời Hán. Có thể nói lịch sử đếquốc Trung Hoa là lịch sử tranh chấp giữa người Hán và người Hồ (các rợ).Nên nhớ thêm điểm này nữa, ở trên tôi đã nói qua: chế độ quân chủ của TrungQuốc thường bị cái họa ngoại thích và hoạn quan mà phương Tây không có. Ngaytừ thời Tây Chu, hễ nhà vua còn nhỏ hoặc nhu nhược, nhất là hoang dâm, thì anhem, họ hàng của hoàng hậu hoặc thái hậu, lập bè đảng để cướp ngôi báu; từ đờiHán triều đình có thời đã phải dùng bọn hoạn quan để trừ ngoại thích, do đó hoạnquan lộng quyền, sĩ phu và hoạn quan thanh toán lẫn nhau. Thời nào mà ngoại thíchvà hoạn quan liên kết với nhau thì triều đại tất sụp đổ.*3. Dưới đâ ...

Tài liệu được xem nhiều: