Tác động của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 0.00 B
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục đích chính của bài viết là nhằm kiểm định tác động của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2015. Bằng cách sử dụng dữ liệu của 63 tỉnh/thành phố tại Việt Nam, kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng GMM hai bước cho thấy có tồn tại tác động của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM THE IMPACT OF TRADE OPENNESS ON VIETNAM ECONOMIC GROWTH TS. Phan Thị Quốc Hương ThS. Lê Việt An Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt Mục đích chính của báo cáo là nhằm kiểm định tác động của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2015. Bằng cách sử dụng dữ liệu của 63 tỉnh/thành phố tại Việt Nam, kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng GMM hai bước cho thấy có tồn tại tác động của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế, trong đó xu hướng tác động thuận chiều được tìm thấy ở tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra, vốn đầu tư, lực lượng lao động và tỷ lệ lạm phát cũng được kiểm định có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nước ta. Cụ thể, đầu tư tư nhân và tỷ lệ lạm phát có tác động thuận chiều; ngược lại, chi tiêu chính phủ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tốc độ tăng của lực lượng lao động được kiểm định có quan hệ âm với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ khóa: Độ mở thương mại, tăng trưởng kinh tế, GMM. Abstract The main purpose of this paper is to test the impact of trade openness on Vietnam economic growth over 20 years. The model was analyzed by using two-step GMM method with data from 63 provinces in Vietnam. As a result, both the total import-export turnover and the import turnover have positive effects on growth. Furthermore, investment capital, labor force and inflation are factors affecting on economic growth. In particular, private investment and inflation have optimistic impacts; by contrast, government expenditure, foreign direct investment and growth rate of labor force own pessimistic relationship with economic growth in Vietnam. Keywords: Trade openness, economic growth, GMM. 1. Đặt vấn đề Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều quan điểm tuy khác nhau về cách tiếp cận, nhưng đều ủng hộ hoạt động giao thương như là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Ngay từ thế kỷ XVI, chủ nghĩa trọng thương đã cổ xúy cho hoạt động xuất khẩu thông qua chế độ bảo hộ mậu dịch. Sau đó, Ricardo (1951); Smith (1976) đã bác bỏ cái nhìn phiến diện của học thuyết trọng thương khi đưa ra cơ sở lý luận cho cả xuất lẫn nhập khẩu dựa trên lợi thế sản xuất của các quốc gia và sự trao đổi này là hoàn toàn tự nguyện. Từ đó, việc gia tăng độ mở thương mại của nền kinh tế tiếp tục được ủng hộ bằng cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Thật vậy, quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa đã làm nền thương mại của mỗi nước xích lại gần nhau hơn, đưa ngoại thương trở thành một nhân tố đóng vai trò quan trọng 139 trong tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có sự sụt giảm trong năm 2015 sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ 2012 - 2014, nhưng tổng kim ngạch thương mại hàng hóa dịch vụ trên thế giới năm 2015 vẫn gần gấp đôi mười năm trước đó. Nếu xét chi tiết, kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ lần lượt là 16,2 và 4,68 triệu tỷ USD. Khối lượng thương mại thế giới tiếp tục tăng chậm trong năm 2015 với mức trung bình là 2,7%. Tham gia vào chuỗi giá trị khổng lồ đó, Việt Nam góp phần không nhỏ trong danh sách các nhà xuất nhập khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới năm 2015 khi xếp vị trí 27 với giá trị 162 tỷ USD, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới; các con số tương ứng về nhập khẩu là thứ tự 28, 166 tỷ USD và 1% tổng kim ngạch nhập khẩu (WTO, 2016). Tuy nhiên, chênh lệch xuất nhập khẩu lại làm giảm 8,62% điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung (Tổng cục Thống kê, 2016). Như vậy, về mặt lý luận, rõ ràng thương mại đóng góp vào GDP, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế quốc gia. Về mặt thực tiễn, mức đóng góp này ảnh hưởng thuận chiều hay ngược chiều đến tăng trưởng còn tùy thuộc vào bối cảnh của quốc gia đó. Hơn nữa, giai đoạn 2006-2015, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động khá lớn từ bối cảnh quốc tế. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái giai đoạn 2008 trở đi đã làm nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu đứng trước khó khăn, thậm chí là phá sản. Song những năm gần đây, nước ta tích cực đẩy mạnh việc ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương, hợp tác với khu vực và thế giới. Nhờ vậy, thương mại quốc tế đã được phục hồi. Do đó, việc có một đánh giá đầy đủ về ảnh hưởng của hoạt động ngoại thương lên tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết. Trong trường hợp Việt Nam, câu hỏi đặt ra là (1) độ mở thương mại ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế; và (2) mức độ ảnh hưởng cụ thể là bao nhiêu. Bài báo này được thực hiện nhằm giải đáp câu hỏi trên. Trong mục 2, một số nghiên cứu về độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế sẽ được đề cập. Mục 3 trình bày phương pháp cũng như dữ liệu nghiên cứu. Mục 4 là kết quả nghiên cứu trước khi đưa ra kết luận ở mục 5. 2. Tổng quan nghiên cứu Nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy sự đồng nhất cao khi đều khẳng định hiệu ứng tích cực của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế với sự đa dạng của thang đo được sử dụng, phương pháp tiếp cận, đặc điểm mẫu điều tra… (Fetahi-Vehapi và cộng sự, 2015; Ghosh và Gregoriou, 2008; Sachs và cộng sự, 1995; Wacziarg, 2001; Were, 2015). Trong đó, thang đo chủ yếu để phản ánh độ mở thương mại là kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu hoặc tổng cả 2 giá trị trên. Đánh giá cả hoạt động xuất lẫn nhập khẩu nói chung, Ghosh và Gregoriou (2008); Zhang và Zou (1998) đều cho rằng độ mở thương mại là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế quốc gia, dù rằng đối tượng được khảo sát ở phạm vi quốc tế là các nước đang phát triển (Ghosh và Gregoriou, 2008), hay chỉ trong một quốc gia là Trung Quốc (Zhang và Zou, 1998). Các tác giả cũng nhận xét rằng, việc gia tăng xuất khẩu sẽ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM THE IMPACT OF TRADE OPENNESS ON VIETNAM ECONOMIC GROWTH TS. Phan Thị Quốc Hương ThS. Lê Việt An Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt Mục đích chính của báo cáo là nhằm kiểm định tác động của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2015. Bằng cách sử dụng dữ liệu của 63 tỉnh/thành phố tại Việt Nam, kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng GMM hai bước cho thấy có tồn tại tác động của độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế, trong đó xu hướng tác động thuận chiều được tìm thấy ở tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra, vốn đầu tư, lực lượng lao động và tỷ lệ lạm phát cũng được kiểm định có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nước ta. Cụ thể, đầu tư tư nhân và tỷ lệ lạm phát có tác động thuận chiều; ngược lại, chi tiêu chính phủ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tốc độ tăng của lực lượng lao động được kiểm định có quan hệ âm với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ khóa: Độ mở thương mại, tăng trưởng kinh tế, GMM. Abstract The main purpose of this paper is to test the impact of trade openness on Vietnam economic growth over 20 years. The model was analyzed by using two-step GMM method with data from 63 provinces in Vietnam. As a result, both the total import-export turnover and the import turnover have positive effects on growth. Furthermore, investment capital, labor force and inflation are factors affecting on economic growth. In particular, private investment and inflation have optimistic impacts; by contrast, government expenditure, foreign direct investment and growth rate of labor force own pessimistic relationship with economic growth in Vietnam. Keywords: Trade openness, economic growth, GMM. 1. Đặt vấn đề Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều quan điểm tuy khác nhau về cách tiếp cận, nhưng đều ủng hộ hoạt động giao thương như là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Ngay từ thế kỷ XVI, chủ nghĩa trọng thương đã cổ xúy cho hoạt động xuất khẩu thông qua chế độ bảo hộ mậu dịch. Sau đó, Ricardo (1951); Smith (1976) đã bác bỏ cái nhìn phiến diện của học thuyết trọng thương khi đưa ra cơ sở lý luận cho cả xuất lẫn nhập khẩu dựa trên lợi thế sản xuất của các quốc gia và sự trao đổi này là hoàn toàn tự nguyện. Từ đó, việc gia tăng độ mở thương mại của nền kinh tế tiếp tục được ủng hộ bằng cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Thật vậy, quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa đã làm nền thương mại của mỗi nước xích lại gần nhau hơn, đưa ngoại thương trở thành một nhân tố đóng vai trò quan trọng 139 trong tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có sự sụt giảm trong năm 2015 sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ 2012 - 2014, nhưng tổng kim ngạch thương mại hàng hóa dịch vụ trên thế giới năm 2015 vẫn gần gấp đôi mười năm trước đó. Nếu xét chi tiết, kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ lần lượt là 16,2 và 4,68 triệu tỷ USD. Khối lượng thương mại thế giới tiếp tục tăng chậm trong năm 2015 với mức trung bình là 2,7%. Tham gia vào chuỗi giá trị khổng lồ đó, Việt Nam góp phần không nhỏ trong danh sách các nhà xuất nhập khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới năm 2015 khi xếp vị trí 27 với giá trị 162 tỷ USD, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới; các con số tương ứng về nhập khẩu là thứ tự 28, 166 tỷ USD và 1% tổng kim ngạch nhập khẩu (WTO, 2016). Tuy nhiên, chênh lệch xuất nhập khẩu lại làm giảm 8,62% điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung (Tổng cục Thống kê, 2016). Như vậy, về mặt lý luận, rõ ràng thương mại đóng góp vào GDP, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế quốc gia. Về mặt thực tiễn, mức đóng góp này ảnh hưởng thuận chiều hay ngược chiều đến tăng trưởng còn tùy thuộc vào bối cảnh của quốc gia đó. Hơn nữa, giai đoạn 2006-2015, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động khá lớn từ bối cảnh quốc tế. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái giai đoạn 2008 trở đi đã làm nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu đứng trước khó khăn, thậm chí là phá sản. Song những năm gần đây, nước ta tích cực đẩy mạnh việc ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương, hợp tác với khu vực và thế giới. Nhờ vậy, thương mại quốc tế đã được phục hồi. Do đó, việc có một đánh giá đầy đủ về ảnh hưởng của hoạt động ngoại thương lên tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết. Trong trường hợp Việt Nam, câu hỏi đặt ra là (1) độ mở thương mại ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế; và (2) mức độ ảnh hưởng cụ thể là bao nhiêu. Bài báo này được thực hiện nhằm giải đáp câu hỏi trên. Trong mục 2, một số nghiên cứu về độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế sẽ được đề cập. Mục 3 trình bày phương pháp cũng như dữ liệu nghiên cứu. Mục 4 là kết quả nghiên cứu trước khi đưa ra kết luận ở mục 5. 2. Tổng quan nghiên cứu Nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy sự đồng nhất cao khi đều khẳng định hiệu ứng tích cực của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế với sự đa dạng của thang đo được sử dụng, phương pháp tiếp cận, đặc điểm mẫu điều tra… (Fetahi-Vehapi và cộng sự, 2015; Ghosh và Gregoriou, 2008; Sachs và cộng sự, 1995; Wacziarg, 2001; Were, 2015). Trong đó, thang đo chủ yếu để phản ánh độ mở thương mại là kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu hoặc tổng cả 2 giá trị trên. Đánh giá cả hoạt động xuất lẫn nhập khẩu nói chung, Ghosh và Gregoriou (2008); Zhang và Zou (1998) đều cho rằng độ mở thương mại là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế quốc gia, dù rằng đối tượng được khảo sát ở phạm vi quốc tế là các nước đang phát triển (Ghosh và Gregoriou, 2008), hay chỉ trong một quốc gia là Trung Quốc (Zhang và Zou, 1998). Các tác giả cũng nhận xét rằng, việc gia tăng xuất khẩu sẽ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển kinh tế Việt Nam Kiểm định độ mở thương mại Mô hình tăng trưởng kinh tế Kim ngạch xuất nhập khẩu Phát triển lực lượng lao độngGợi ý tài liệu liên quan:
-
12 trang 190 0 0
-
11 trang 171 0 0
-
Ứng dụng mô hình ARDL nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
9 trang 162 0 0 -
19 trang 156 0 0
-
Một số đột phá trong đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
12 trang 129 0 0 -
124 trang 108 0 0
-
346 trang 104 0 0
-
Hàm ý một số giải pháp phát triển doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam thời hội nhập
12 trang 93 0 0 -
Chủ nghĩa hướng ngoại và ý định mua hàng ngoại của người tiêu dùng đô thị Việt Nam
14 trang 80 1 0 -
Ứng dụng lý thuyết của Hofstede trong nghiên cứu văn hóa khách hàng dịch vụ viễn thông di động
12 trang 76 0 0