Tài liệu tham khảo: Hoá học hữu cơ
Số trang: 184
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.45 MB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đối tượng nghiên cứu của hoá học là những chất hoá học riêng biệt và sự biến đổi củachúng. Một lĩnh vực cơ bản của hoá học là hoá học hữu cơ nghiên cứu các hợp chất củacacbon với các nguyên tố khác, chủ yếu là hợp chất của cacbon với Hyđrô, Oxi, Nitơ,Phốtpho, Lưu huỳnh và Halogen.Nhiều hợp chất hữu cơ đã được con người biết rất lâu như: dấm (axit axetic lỏng), mộtsố thuốc nhuộm, rượu etylic, các hợp chất axit oxalic, axit xitric, axit tatric và một số bazơ hữucơ (các ancaloit) được tách từ động và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu tham khảo: Hoá học hữu cơ 1 CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU 1.1. HOÁ HỮU CƠ - CHẤT HỮU CƠ 1.1.1. Đặc điểm và sự phát triển của hoá học hữu cơ Đối tượng nghiên cứu của hoá học là những chất hoá học riêng biệt và sự biến đổi củachúng. Một lĩnh vực cơ bản của hoá học là hoá học hữu cơ nghiên cứu các hợp chất củacacbon với các nguyên tố khác, chủ yếu là hợp chất của cacbon với Hyđrô, Oxi, Nitơ,Phốtpho, Lưu huỳnh và Halogen. Nhiều hợp chất hữu cơ đã được con người biết rất lâu như: dấm (axit axetic lỏng), mộtsố thuốc nhuộm, rượu etylic, các hợp chất axit oxalic, axit xitric, axit tatric và một số bazơ hữucơ (các ancaloit) được tách từ động và thực vật vào cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.Thời điểm này cũng được tính là thời điểm đầu của môn hoá học hữu cơ. Ở thế kỷ thứ 18 và thế kỷ thứ 19, người ta cho rằng hoá học của thế giới các chất SỐNGkhác với thế giới hoá học của các chất chết, là cơ thể sống được cấu tạo từ những hợp chất đặcbiệt do một ngoại lực sống (Trời, Chúa, Phật…) tạo nên mà các chất đó bản thân con ngườikhông thể tổng hợp được. Nhưng những phát hiện ở thế kỷ 19 cho thấy rằng tất cả các hợp chấtcấu tạo nên cơ thể động vật và thực vật đều có thành phần giống nhau đã phá vỡ sự khác biệtgiữa hoá học động vật và thực vật. Hai lĩnh vực nghiên cứu này đã sát nhập vào nhau và hìnhthành môn hoá học hữu cơ. Nhà bác học Thuỵ Điển Berceluyci (1779-1848) đã có rất nhiềucông trong lĩnh vực sát nhập này. Sau ông, nhà bác học Lavuaze, bằng những phương phápphân tích định lượng đã phát hiện được một số nguyên tố mới, xác định được nguyên tử lượngcủa nhiều nguyên tố, đã đặt nên móng cho hiện tượng đồng phân. Nhà hoá học Đức Beler bằngphản ứng thuỷ phân hợp chất đixianua (vô cơ) đã thu được axit oxalic (hữu cơ) năm 1824 vàxiaoxit amoni (vô cơ) thu được urê (hữu cơ) năm 1828 đã phá vỡ sự phân biệt giữa hợp chất vôcơ và hữu cơ. Điều này cũng chứng minh rằng các hợp chất hữu cơ có thể thu nhận được bằngcon đường tổng hợp mà không cần sự tham gia của một ngoại lực huyền bí nào cả. Điều đó đãđược khẳng định bằng các công trình của Buttlerôp đã tổng hợp các hợp chất đường từformalin (1861), Farađây thu nhận được bezen (1825), Zinin tổng hợp được aniline từnitrobezen (1842) và từ aniline đã thu nhận được các hợp chất màu vào những năm 50 của thếkỷ 19. Cũng vào những năm này Gmelin đã đưa ra định nghĩa hoá học hữu cơ – đó là hoá họccác hợp chất cacbon và nó tại đến ngày nay. 1.1.2. Cấu tạo của các hợp chất hữu cơ 2 Từ định nghĩa trên đây xuất hiện một vấn đề lớn là tại sao từ hàng trăm nguyên tố đãbiết chỉ có cacbon tạo thành nhiều hợp chất như vậy? Thứ nhất: do hiện tượng đồng phân được Berceluyci phát hiện cho tất cả các chất hoáhọc mà đặc biệt là chất hữu cơ – có thể tồn tại nhiều hợp chất khác nhau có cùng thành phầnnguyên tố, cùng phân tử lượng nhưng khác nhau về cấu tạo. Ví dụ: C20H42 có 366.319 hợp chấtkhác nhau, C30H62 tồn tại 4.111.846.768 hợp chất khác nhau. Thứ 2: do hiện tượng đồng đẳng - tồn tại các hợp chất hoá học mà thành phần của mỗichất chỉ khác nhau bởi một nhóm CH2 (mêtylen) một số nguyên tử cacbon như nhau nhưnghợp chất sau có ít hơn hợp chất trước đó 2 nguyên tử Hyđrô (êtan C2H6, axetylen C2H2). Vậy tại sao các hợp chất hữu cơ lại tồn tại dưới các dạng đồng đẳng, đồng phân? Trong các thuyết đưa ra để giải thích vấn đề này của nhiều nhà bác học thuộc nhiều thếhệ khác nhau có thể lưu ý một vài giả thiết sau đây: Thuyết kiểu của Zerar – các hợp chất được phân bố theo các kiểu H2O, HCl, H3N, H2.Ở đây chỉ cần thay thế hyđrô của các kiểu bằng phần gốc hữu cơ thì ta sẽ thu được các hợpchất khác nhau. Ví dụ: H CH3 C2H5 C2H3O O O O O H H H H nước mêtanol êtanol axit axetic H CH3 C2H5 C2H3O Cl Cl Cl Cl hyđrôclorua mêtylclorua êtylclorua axêtylclorua H CH3 C2H5 C2H3O H H H H Hyđrô mêtan êtan axêtanđêhyt Năm 1851, Viliamxơn đưa ra thuyết rađical của nhiều nguyên tử - tức là các rađical cókhả năng thay thế 2 hoặc nhiều hyđrô ở trong các kiểu. Ví dụ: axit aminôaxêtic là kiểu H2O và NH3 H H O C2H2O 3 H N H ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu tham khảo: Hoá học hữu cơ 1 CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU 1.1. HOÁ HỮU CƠ - CHẤT HỮU CƠ 1.1.1. Đặc điểm và sự phát triển của hoá học hữu cơ Đối tượng nghiên cứu của hoá học là những chất hoá học riêng biệt và sự biến đổi củachúng. Một lĩnh vực cơ bản của hoá học là hoá học hữu cơ nghiên cứu các hợp chất củacacbon với các nguyên tố khác, chủ yếu là hợp chất của cacbon với Hyđrô, Oxi, Nitơ,Phốtpho, Lưu huỳnh và Halogen. Nhiều hợp chất hữu cơ đã được con người biết rất lâu như: dấm (axit axetic lỏng), mộtsố thuốc nhuộm, rượu etylic, các hợp chất axit oxalic, axit xitric, axit tatric và một số bazơ hữucơ (các ancaloit) được tách từ động và thực vật vào cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.Thời điểm này cũng được tính là thời điểm đầu của môn hoá học hữu cơ. Ở thế kỷ thứ 18 và thế kỷ thứ 19, người ta cho rằng hoá học của thế giới các chất SỐNGkhác với thế giới hoá học của các chất chết, là cơ thể sống được cấu tạo từ những hợp chất đặcbiệt do một ngoại lực sống (Trời, Chúa, Phật…) tạo nên mà các chất đó bản thân con ngườikhông thể tổng hợp được. Nhưng những phát hiện ở thế kỷ 19 cho thấy rằng tất cả các hợp chấtcấu tạo nên cơ thể động vật và thực vật đều có thành phần giống nhau đã phá vỡ sự khác biệtgiữa hoá học động vật và thực vật. Hai lĩnh vực nghiên cứu này đã sát nhập vào nhau và hìnhthành môn hoá học hữu cơ. Nhà bác học Thuỵ Điển Berceluyci (1779-1848) đã có rất nhiềucông trong lĩnh vực sát nhập này. Sau ông, nhà bác học Lavuaze, bằng những phương phápphân tích định lượng đã phát hiện được một số nguyên tố mới, xác định được nguyên tử lượngcủa nhiều nguyên tố, đã đặt nên móng cho hiện tượng đồng phân. Nhà hoá học Đức Beler bằngphản ứng thuỷ phân hợp chất đixianua (vô cơ) đã thu được axit oxalic (hữu cơ) năm 1824 vàxiaoxit amoni (vô cơ) thu được urê (hữu cơ) năm 1828 đã phá vỡ sự phân biệt giữa hợp chất vôcơ và hữu cơ. Điều này cũng chứng minh rằng các hợp chất hữu cơ có thể thu nhận được bằngcon đường tổng hợp mà không cần sự tham gia của một ngoại lực huyền bí nào cả. Điều đó đãđược khẳng định bằng các công trình của Buttlerôp đã tổng hợp các hợp chất đường từformalin (1861), Farađây thu nhận được bezen (1825), Zinin tổng hợp được aniline từnitrobezen (1842) và từ aniline đã thu nhận được các hợp chất màu vào những năm 50 của thếkỷ 19. Cũng vào những năm này Gmelin đã đưa ra định nghĩa hoá học hữu cơ – đó là hoá họccác hợp chất cacbon và nó tại đến ngày nay. 1.1.2. Cấu tạo của các hợp chất hữu cơ 2 Từ định nghĩa trên đây xuất hiện một vấn đề lớn là tại sao từ hàng trăm nguyên tố đãbiết chỉ có cacbon tạo thành nhiều hợp chất như vậy? Thứ nhất: do hiện tượng đồng phân được Berceluyci phát hiện cho tất cả các chất hoáhọc mà đặc biệt là chất hữu cơ – có thể tồn tại nhiều hợp chất khác nhau có cùng thành phầnnguyên tố, cùng phân tử lượng nhưng khác nhau về cấu tạo. Ví dụ: C20H42 có 366.319 hợp chấtkhác nhau, C30H62 tồn tại 4.111.846.768 hợp chất khác nhau. Thứ 2: do hiện tượng đồng đẳng - tồn tại các hợp chất hoá học mà thành phần của mỗichất chỉ khác nhau bởi một nhóm CH2 (mêtylen) một số nguyên tử cacbon như nhau nhưnghợp chất sau có ít hơn hợp chất trước đó 2 nguyên tử Hyđrô (êtan C2H6, axetylen C2H2). Vậy tại sao các hợp chất hữu cơ lại tồn tại dưới các dạng đồng đẳng, đồng phân? Trong các thuyết đưa ra để giải thích vấn đề này của nhiều nhà bác học thuộc nhiều thếhệ khác nhau có thể lưu ý một vài giả thiết sau đây: Thuyết kiểu của Zerar – các hợp chất được phân bố theo các kiểu H2O, HCl, H3N, H2.Ở đây chỉ cần thay thế hyđrô của các kiểu bằng phần gốc hữu cơ thì ta sẽ thu được các hợpchất khác nhau. Ví dụ: H CH3 C2H5 C2H3O O O O O H H H H nước mêtanol êtanol axit axetic H CH3 C2H5 C2H3O Cl Cl Cl Cl hyđrôclorua mêtylclorua êtylclorua axêtylclorua H CH3 C2H5 C2H3O H H H H Hyđrô mêtan êtan axêtanđêhyt Năm 1851, Viliamxơn đưa ra thuyết rađical của nhiều nguyên tử - tức là các rađical cókhả năng thay thế 2 hoặc nhiều hyđrô ở trong các kiểu. Ví dụ: axit aminôaxêtic là kiểu H2O và NH3 H H O C2H2O 3 H N H ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hóa học hữu cơ bài tập Hóa học hữu cơ giáo trình Hóa học hữu cơ tài liệu Hóa học hữu cơ bài giảng Hóa học hữu cơ đề cương Hóa học hữu cơTài liệu liên quan:
-
Giáo án Hóa học lớp 12 'Trọn bộ cả năm)
342 trang 343 0 0 -
Báo cáo đề tài: Chất chống Oxy hóa trong thực phẩm
19 trang 154 0 0 -
131 trang 132 0 0
-
Luận văn Nâng cao năng lực tự học cho HS chuyên Hoá học bằng tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun
162 trang 83 0 0 -
Tiểu luận: Các nguồn nitrat nitrit vào trong thực phẩm
19 trang 77 1 0 -
Lý thuyết môn Hoá học lớp 11 - Trường THPT Đào Sơn Tây
89 trang 69 0 0 -
Giáo trình hoá học hữu cơ tập 1 - PGS.TS Nguyễn Hữu Đĩnh
402 trang 63 0 0 -
Phương pháp giải các bài tập đặc trưng về anđehit - xeton tài liệu bài giảng
0 trang 50 0 0 -
Tổng hợp cơ sở lý thuyết và 500 câu hỏi trắc nghiệm Hóa học: Phần 2
158 trang 46 0 0 -
Giáo án Hóa học lớp 11 - Bài 8: Hợp chất hữu cơ và hóa học hữu cơ (Sách Chân trời sáng tạo)
12 trang 43 1 0