Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 480.86 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này nhằm xác định mức sẵn lòng trả trung bình và các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất giá sẵn lòng trả của du khách trong nước. Thông qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách đối với cơ quan quản lý địa phương trong việc tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường cho vịnh Nha Trang.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010 VAÁN ÑEÀ NGHIEÂN CÖÙU TÀI TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VỊNH NHA TRANG: VAI TRÒ CỦA KHÁCH DU LỊCH FINANCING ENVIRONMENTAL PROTECTION ACTIVITIES IN NHA TRANG BAY: THE ROLE OF THE VISITORS Phạm Hồng Mạnh Khoa Kinh tế - Đại học Nha Trang Tóm tắt Nghiên cứu này nhằm xác định mức sẵn lòng trả trung bình và các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất giá sẵn lòng trả của du khách trong nước. Thông qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách đối với cơ quan quản lý địa phương trong việc tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường cho vịnh Nha Trang. Phương pháp tiếp cận là hàm thỏa dụng ngẫu nhiên, phương pháp ước lượng giá sẵn lòng trả trung bình (MWTP) của Kaplan-MeierTurnbull và mô hình hồi quy logits được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất sẵn lòng trả (WTP) của du khách nội địa cho việc bảo vệ cảnh quan và tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang. Kết quả nghiên cứu cho thấy du khách sẵn sàng đóng góp một khoản tiền cho một ngày đêm nghỉ tại khách sạn là 19.561 đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ đồng trong năm 2007. Một số yếu tố làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du khách như: độ học vấn, tình trạng hôn nhân (du khách đã lập gia đình) và thu nhập. Ngược lại, các yếu tố tuổi và giới tính (nam giới) làm giảm xác suất sẵn lòng trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang. Abstract This study determines the mean willingness to pay and factors affecting the probability of the willingness to pay by domestic tourists. Through it, make out the recommendation policies for the local administrative agency to finance the environmental protection fund for Nha Trang Bay. The approach methods were the random untility function with estimating mean willingness to pay (MWTP) by Kaplan-Meier-Turnbull. The logits model has been used to analyze the factors affecting the probability of the willingness to pay (WTP) of domestic visitors for the Nha Trang Bay’ protection of landscape and environmental resource. Research results showed that visitors were willing to contribute the environmental protection fund with the amount of 19.561 VND /visistor/night at the hotel. Total amount for Nha Trang Bay’ environmental fund that dometic visitors are willing to pay to is the 52,719 billion VND in 2007. Some factors increase the probability of the willingness to pay by visitors such as: education level, marital status (tourist married) and income. Conversely, the factors age and gender (men) decrease the probability of the willinness to pay by visitors for Nha Trang Bay’ environmental fund. I. MỞ ĐẦU Sự phát triển của bất kỳ ngành kinh tế nào cũng gắn liền với những vấn đề về môi trường. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa đối với sự phát triển của ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng, và xã hội hoá cao như du lịch. Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của hoạt động du lịch. Hoạt động phát triển du lịch đồng nghĩa với việc gia tăng lượng khách du lịch TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 79 Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn tới các địa điểm tham quan du lịch, tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên, v.v.., từ đó dẫn đến sự gia tăng áp lực của phát triển du lịch đến môi trường. Chính vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch là yêu cầu cấp bách không chỉ đối với riêng Việt Nam mà còn là thách thức lớn đối với các quốc gia trên thế giới. Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu để đưa ra hệ thống các giải pháp kinh tế - kỹ thuật góp phần bảo vệ môi trường nói chung và môi trường du lịch nói riêng. Trong năm 1993 tác giả Dixon và cộng sự [1] đã sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên để ước lượng giá sẵn lòng trả cho công viên bờ biển Bonaire và giá sẵn lòng trả trung bình được xác định là 27,4 đô la Mỹ hay tác giả Churaitapvong và Jittapatr Kruavan[2] đã sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên trong nghiên cứu điển hình về cải thiện chất lượng nước của sông Chaopraya, Thái Lan vào năm 2003. Giá sẵn lòng trả của mỗi hộ gia đình cho việc cải thiện chất lượng nước sông này được tìm ra là 100,81 bath/ tháng… Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu dưới góc độ kinh tế tài nguyên môi trường nhằm góp phần đưa ra những giải pháp quan trọng cho hoạt động bảo vệ môi trường như trong năm 2001 Bộ kế hoạch và Đầu tư (MPI), Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và cơ quan hợp tác & phát triển Thụy Sỹ (SDC) đã sử dụng phương pháp phương pháp đánh giá ngẫu nhiên để xác định giá sẵn lòng trả trung bình để duy trì hoạt động bảo vệ và phát triển tài nguyên môi trường của vịnh Hạ Long. Mức giá sẵn lòng trả trung bình được xác định là 2,32 đô la Mỹ cho một ngày đêm ngh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường của vịnh Nha Trang: Vai trò của khách du lịch Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2010 VAÁN ÑEÀ NGHIEÂN CÖÙU TÀI TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VỊNH NHA TRANG: VAI TRÒ CỦA KHÁCH DU LỊCH FINANCING ENVIRONMENTAL PROTECTION ACTIVITIES IN NHA TRANG BAY: THE ROLE OF THE VISITORS Phạm Hồng Mạnh Khoa Kinh tế - Đại học Nha Trang Tóm tắt Nghiên cứu này nhằm xác định mức sẵn lòng trả trung bình và các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất giá sẵn lòng trả của du khách trong nước. Thông qua đó, đưa ra những gợi ý chính sách đối với cơ quan quản lý địa phương trong việc tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường cho vịnh Nha Trang. Phương pháp tiếp cận là hàm thỏa dụng ngẫu nhiên, phương pháp ước lượng giá sẵn lòng trả trung bình (MWTP) của Kaplan-MeierTurnbull và mô hình hồi quy logits được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xác suất sẵn lòng trả (WTP) của du khách nội địa cho việc bảo vệ cảnh quan và tài nguyên môi trường của vịnh Nha Trang. Kết quả nghiên cứu cho thấy du khách sẵn sàng đóng góp một khoản tiền cho một ngày đêm nghỉ tại khách sạn là 19.561 đồng/nguời/ngày đêm. Tổng số tiền mà du khách sẵn lòng trả cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang là trên 52,719 tỷ đồng trong năm 2007. Một số yếu tố làm tăng xác suất sẵn lòng trả của du khách như: độ học vấn, tình trạng hôn nhân (du khách đã lập gia đình) và thu nhập. Ngược lại, các yếu tố tuổi và giới tính (nam giới) làm giảm xác suất sẵn lòng trả của du khách cho quỹ môi trường của vịnh Nha Trang. Abstract This study determines the mean willingness to pay and factors affecting the probability of the willingness to pay by domestic tourists. Through it, make out the recommendation policies for the local administrative agency to finance the environmental protection fund for Nha Trang Bay. The approach methods were the random untility function with estimating mean willingness to pay (MWTP) by Kaplan-Meier-Turnbull. The logits model has been used to analyze the factors affecting the probability of the willingness to pay (WTP) of domestic visitors for the Nha Trang Bay’ protection of landscape and environmental resource. Research results showed that visitors were willing to contribute the environmental protection fund with the amount of 19.561 VND /visistor/night at the hotel. Total amount for Nha Trang Bay’ environmental fund that dometic visitors are willing to pay to is the 52,719 billion VND in 2007. Some factors increase the probability of the willingness to pay by visitors such as: education level, marital status (tourist married) and income. Conversely, the factors age and gender (men) decrease the probability of the willinness to pay by visitors for Nha Trang Bay’ environmental fund. I. MỞ ĐẦU Sự phát triển của bất kỳ ngành kinh tế nào cũng gắn liền với những vấn đề về môi trường. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa đối với sự phát triển của ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng, và xã hội hoá cao như du lịch. Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của hoạt động du lịch. Hoạt động phát triển du lịch đồng nghĩa với việc gia tăng lượng khách du lịch TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG v 79 Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn tới các địa điểm tham quan du lịch, tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên, v.v.., từ đó dẫn đến sự gia tăng áp lực của phát triển du lịch đến môi trường. Chính vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch là yêu cầu cấp bách không chỉ đối với riêng Việt Nam mà còn là thách thức lớn đối với các quốc gia trên thế giới. Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu để đưa ra hệ thống các giải pháp kinh tế - kỹ thuật góp phần bảo vệ môi trường nói chung và môi trường du lịch nói riêng. Trong năm 1993 tác giả Dixon và cộng sự [1] đã sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên để ước lượng giá sẵn lòng trả cho công viên bờ biển Bonaire và giá sẵn lòng trả trung bình được xác định là 27,4 đô la Mỹ hay tác giả Churaitapvong và Jittapatr Kruavan[2] đã sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên trong nghiên cứu điển hình về cải thiện chất lượng nước của sông Chaopraya, Thái Lan vào năm 2003. Giá sẵn lòng trả của mỗi hộ gia đình cho việc cải thiện chất lượng nước sông này được tìm ra là 100,81 bath/ tháng… Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu dưới góc độ kinh tế tài nguyên môi trường nhằm góp phần đưa ra những giải pháp quan trọng cho hoạt động bảo vệ môi trường như trong năm 2001 Bộ kế hoạch và Đầu tư (MPI), Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và cơ quan hợp tác & phát triển Thụy Sỹ (SDC) đã sử dụng phương pháp phương pháp đánh giá ngẫu nhiên để xác định giá sẵn lòng trả trung bình để duy trì hoạt động bảo vệ và phát triển tài nguyên môi trường của vịnh Hạ Long. Mức giá sẵn lòng trả trung bình được xác định là 2,32 đô la Mỹ cho một ngày đêm ngh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hoạt động bảo vệ môi trường Vai trò của khách du lịch Xác suất giá sẵn lòng trả của du khách Cơ sở của việc xác định giá sẵn lòng trả Tài trợ các hoạt động bảo vệ môi trường Mô hình Binary LogisticTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Luật môi trường Việt Nam - Phần 2
127 trang 54 0 0 -
Nghiên cứu kinh nghiệm về quản lý môi trường ngành khách sạn: Những bài học rút ra cho Việt Nam
17 trang 41 0 0 -
6 trang 40 0 0
-
Luật số 72/2020/QH14 - Luật Bảo vệ môi trường 2020
134 trang 35 0 0 -
Biến đổi khí hậu - Sổ tay hướng dẫn cho giáo viên THCS và THPT
48 trang 31 0 0 -
7 trang 26 0 0
-
75 trang 23 0 0
-
8 trang 22 0 0
-
Kế toán môi trường tại các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
5 trang 22 0 0 -
Nhiều ý kiến đóng góp bảo vệ môi trường
3 trang 22 0 0