Danh mục

Tản mạn về Bình vôi

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 231.93 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 19,000 VND Tải xuống file đầy đủ (19 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong số những vật dụng dân gian, tôi yêu thích nhất cái bình vôi. Không có kỷ niệm đặc biệt liên hệ, nhưng hễ nhìn thấy gốc đa với những bình vôi lăn lóc, là lòng cứ bồi hồi không thôi với những xúc cảm dấy lên từ tận cùng máu xương da thịt.Tôi cũng chẳng phải là một nhà khảo cổ, nhưng có tính xấu rất tò mò tìm hiểu những gì yêu thích. Thấy tài liệu nào liên hệ là ôm lấy ngấu nghiến nghiền ngẫm, và sau đó không cất giấu riêng, mà muốn chia xẻ với...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tản mạn về Bình vôiTản mạn về Bình vôiBài viết của Trần Thị Lai HồngTrong số những vật dụng dân gian, tôi yêu thích nhất cái bìnhvôi. Không có kỷ niệm đặc biệt liên hệ, nhưng hễ nhìn thấygốc đa với những bình vôi lăn lóc, là lòng cứ bồi hồi khôngthôi với những xúc cảm dấy lên từ tận cùng máu xương dathịt.Tôi cũng chẳng phải là một nhà khảo cổ, nhưng có tính xấurất tò mò tìm hiểu những gì yêu thích. Thấy tài liệu nào liênhệ là ôm lấy ngấu nghiến nghiền ngẫm, và sau đó không cấtgiấu riêng, mà muốn chia xẻ với mọi người.Trong số những sản phẩm đất nung, gọi chung là đồ gốm,phải nói rằng bình vôi có nét riêng rẽ độc lập mang cá tính rấtViệt Nam, mặc dầu tục ăn cau trầu vôi lan rộng cả vùngĐông Nam Á, kể từ Quảng Đông Quảng Tây Vân Nam phíaNam Trung Hoa cho đến các nước láng giềng Miên Thái LàoMiến Điện, sang tận Mã Lai Tân Gia Ba Phi Luật Tân NamDương và Ấn Độ …Bình vôi đơn giản chỉ là một bình nhỏ đựng vôi bột trắngnguyên chất có hoà nước sền sệt, có khi được tí phẩm hồnglàm đẹp. Vôi phết lên lá trầu bằng cái chìa vôi, têm gọn, nhaichung với một miếng cau, theo tập tục ăn cau trầu tươngtruyền có từ đời Hùng Vương, tức là cả ngàn năm trướcThiên Chúa.Bình vôi tìm được ở Nam Mỹ, xứ Ecuador, 1500 năm trướcCông NguyênTại Việt Nam, bình vôi được tôn kính là Ông – Ông Vôi hoặcÔng Bình Vôi – được coi như một vị thần, được giữ gìn tôntrọng, để ở khay, ô, tráp, hộp, quả hộp, hay cơi cau trầu trênsập gụ hay trên bàn kê giữa nhà. Chiếc khay cũng được bảotrọng, thường được làm bằng gỗ quý chạm trổ hoặc cẩn xàcừ, cẩn ngà. Đi đôi với bộ khay cau trầu vôi trên sập gụ haytrên bàn, là một ống nhổ bằng đồng thau để dưới chân sậpchân bàn, dùng đựng nước trầu và bã trầu.Tuy được tôn kính bảo trọng, bình vôi không được để trênbàn thờ tổ tiên hoặc trên hương án, không để trên bàn thờThành hoàng hay Tổ đình, cũng không được để trên bànPhật. Bình vôi có vị trí quan trọng nhưng chỉ trong phạm vigia đình – như Ông Táo, Vua Bếp – liên bệ đến những sinhhoạt trong nhà.Bình vôi cũ hoặc sứt mẻ không được vứt bỏ rác, mà đượcđem để dưới gốc đa trong làng hoặc dưới luỹ tre bên đình, lànhững nơi cũng được tôn kính, dân làng hay qua lại ngồi nghỉmát hoặc họp chợ.Về chuyện kể liên hệ đến bình vôi, xưa có một tên trộmchuyên nghiệp tài tình, khi về già ăn năn hối cải, bỏ nghề, xinvào chùa tá túc nghe kinh. Sư cụ trụ trì giao việc giữ lửa, gàgáy sáng có phận sự nấu nước pha trà cúng Phật. Tên trộmchăm lo giữ lửa và làm tất cả mọi việc nặng trong chùa, thànhtâm tu tập, được sư cụ tin cậy.Trong chùa có chú tiểu nhỏ không ưa tên trộm và sinh lòngghét bỏ, ghen tỵ về lòng tin cậy của sư cụ. Một đêm, chú léndập tắt lửa. Sáng dậy thấy không còn lửa đã vùi ủ kín đêmqua, tên trộm rầu rĩ chẳng biết cách xoay sở. Chú tiểu bènbày mưu hại, bảo tên trộm leo lên cây đa thiêng bên chùa cầuPhật gia hộ. Chú bảo :- Leo lên ! Leo tuốt cao tận ngọn, buông tay buông chân nhưbuông thả bản thân, buông thả ngũ uẩn. Phật sẽ gia hộ đưađến nơi có lửa.Tên trộm cả tin theo lời. Khi buông mình, thay vì rơi xuốngđất chết, lại được một đám mây vàng nhẹ nhàng cứu độ đưavề cõi Niết bàn không sinh không diệt. Chú tiểu ngỡ ngàng,nhưng lòng tham sân si bùng mạnh, chú đi dập tắt lửa rồi leolên tận ngọn đa, buông mình. Chú rơi nhanh. Một cành đanhọn đâm xuyên thủng bụng. Chú chết, không được vãn sinhtịnh độ, mà biến thành một cái bình tròn bụng chứa đầy vôinồng – tượng trưng lòng đố kỵ – và cành đa nhọn là chiếcdao nhỏ dùng quệt vôi têm trầu.Truyền thuyết sự tích cau trầu vôi kể từ đời Hùng Vương thứtư, nhưng các nhà khảo cổ không tìm được vết tích bình vôithời các Vua Hùng của nền văn minh Đông Sơn. Tuy nhiên,sách An-Nam Chí- lựơc của Cao Hùng Trưng soạn năm1691, được Trần Kinh Hoà Giáo sư Đại học Huế dịch ra tiếngViệt năm 1962, có trích đoạn Nam-Việt Ngoại -Ký chép :“… Người Giao chỉ (người Việt) bới tóc cao, xâm vẽ mình,miệng đỏ răng đen, tồn ty đều ăn cau trầu … “ Như vậy, tụcăn cau trầu có tự ngàn xưa.Trong tác phẩm Gốm Việt Nam: Một Truyền thống Riêng –Vietnamese Ceramics : a Separate Tradition – của JohnStevenson và John Guy, do Avery Press xuất bản năm 1997,có viết rõ bình vôi đầu tiên tìm được trong một ngôi mộ cổ ởThanh Hoá, có tuổi khoảng thế kỷ thứ hai đến thứ năm sauThiên Chúa. Bình dáng tròn có núm dẹp để cầm, lỗ tròn đểlấy vôi, đế chân lận ra ngoài. Bình làm bằng đất nung tô điểmmấy đường chạy vòng, tráng men trắng ngà, phía sau còn vếthai giọt men bóng ngời.Kiểu bình vôi núm này tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ 14,sau đó vẫn còn được làm bên Thái lan.Bình vôi tân tạo dập khuôn đời Lý, núm dạng lá Sen,mentrắng đục da rạn ửng xanh và nâu nhạt.Sưu tập tư nhân, Hoa Kỳ.Bình vôi tân tạo dập khuôn đời Lý, núm búp Sen, men da rạnxanh ngọc, xanh nâu và nâu nhạt, có quả cau đắp nổi.Sưu tập tư nhân, Hoa Kỳ.Đời nhà Lý (1010-1225), bình ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: