Tăng cường giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 72.36 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh, cho thế hệ trẻ hiện nay đang là vấn đề cấp thiết đối với cả nhân loại, bởi quan hệ giữa con người với tự nhiên đang đặt ra những vấn đề bức bách. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường... đang trở thành những trở ngại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tăng cường giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 2, pp. 143-149 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH Nguyễn Thị Thọ Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh, cho thế hệ trẻ hiện nay đang là vấn đề cấp thiết đối với cả nhân loại, bởi quan hệ giữa con người với tự nhiên đang đặt ra những vấn đề bức bách. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường. . . đang trở thành những trở ngại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển. Để phát triển bền vững, chúng ta cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, phải đối xử một cách có đạo đức với tự nhiên - thực hiện đạo đức môi trường và giáo dục đạo đức môi trường cho thế hệ trẻ. Từ khóa: Con người, tự nhiên, đạo đức môi trường, phát triển bền vững.1. Mở đầu Đạo đức là một trong những phương thức căn bản điều chỉnh hành vi của con ngườitrong quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình. Là một lĩnh vực đặcthù của đạo đức, biểu hiện trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đạo đức môitrường đã hình thành, phát triển và ngày càng trở nên cần thiết đối với mọi quốc gia trongđó có Việt Nam. Lịch sử nhân loại từ trước đến nay thực chất là lịch sử của mối quan hệgiữa con người với tự nhiên, con người với xã hội và với chính bản thân mình. C.Mác đãtừng khẳng định: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhânriêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xãhội” [1]. Con người với tư cách là một thực thể xã hội, bằng hoạt động thực tiễn của mìnhtác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triểncủa lịch sử xã hội. Tuy nhiên, xã hội càng phát triển thì sự tác động của con người vàotự nhiên đang bộc lộ nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đòi hỏi con người phải đối xử mộtcách có đạo đức với tự nhiên để đảm bảo yêu cầu cho phát triển bền vững. Vì vây, nghiêncứu đạo đức môi trường và giáo dục nó cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết, cóý nghĩa cả về phương diện lí luận và thực tiễn.Ngày nhận bài: 15/08/2013. Ngày nhận đăng: 15/01/2014.Liên hệ: Nguyễn Thị Thọ, e-mail: thodhsp@gmail.com. 143 Nguyễn Thị Thọ2. Nội dung nghiên cứu2.1. Đạo đức môi trường Tư tưởng về sự tương đồng, hoà hợp giữa con người và tự nhiên, tình yêu thươnggiữa con người với con người, giữa con người với vạn vật đã được đề cập đến cả trongtriết học phương Đông và phương Tây và trong các tôn giáo từ xa xưa. Nhưng, cùng vớisự phát triển của lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của nhận thức, của khoa học côngnghệ; sự thay đổi trong quan niệm, lối sống con người đang dần phá vỡ mối quan hệ vớitự nhiên, đang phá vỡ quy luật tự nhiên, làm cho tự nhiên biến đổi mạnh mẽ theo chiềuhướng không có lợi cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Thựctiễn lịch sử đang đòi hỏi, muốn có sự phát triển bền vững thì con người cần có thái độđúng đắn với tự nhiên, cần bảo vệ môi trường sống một cách tự giác và tự nguyện. Triếtgia Mĩ Aldo Leopold, người được coi là đã đưa ra những đánh giá đầu tiên về mặt đạo đứcgiữa con người với tự nhiên, là người sáng lập Đạo đức học môi trường đã khẳng định:“Hành động tốt là hành động nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, sự ổn định và vẻ đẹp của cộngđồng sinh vật, còn ngược lại thì đó là hành động xấu” [2]. Từ khi xuất hiện đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất, vẫn còn nhiều luậnbàn, đến năm 1979, thuật ngữ Đạo đức học môi trường và tương ứng với nó là Đạo đứcmôi trường mới từng bước được sử dụng một cách phổ biến. Ngày nay, khi nói đến Đạođức học môi trường hoặc Đạo đức môi trường là người ta muốn nói đến “một phương diệncủa phát triển. Nó thật sự có vai trò và ý nghĩa không thể thay thế trong việc bảo vệ môitrường, trái đất - ngôi nhà chung của nhân loại” [3]. Trên bình diện đạo đức, sự phản ánh yêu cầu của phát triển bền vững, của bảo vệmôi trường vào ý thức đạo đức con người, loài người, sự thể hiện ý thức đó trong thực tiễnphát triển xã hội và bảo vệ môi trường chính là ý thức và thực tiễn đạo đức môi trường. Dovậy, đạo đức môi trường được hiểu “là một phương diện của đạo đức nói chung, là sự thểhiện và thực hiện đạo đức xã hội trong lĩnh vực quan hệ giữa con người và tự nhiên” [4]. Để bảo vệ môi trường thì sự điều chỉnh bằng các công ước, luật môi trường haycác quy chế là chưa đủ. Nên đạo đức môi trường có vai trò to lớn và không thể thiếu đượctrong việc điều chỉnh mọi hành vi trong quan hệ giữa con người và tự nhiên. Sự ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tăng cường giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 2, pp. 143-149 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH Nguyễn Thị Thọ Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh, cho thế hệ trẻ hiện nay đang là vấn đề cấp thiết đối với cả nhân loại, bởi quan hệ giữa con người với tự nhiên đang đặt ra những vấn đề bức bách. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường. . . đang trở thành những trở ngại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển. Để phát triển bền vững, chúng ta cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, phải đối xử một cách có đạo đức với tự nhiên - thực hiện đạo đức môi trường và giáo dục đạo đức môi trường cho thế hệ trẻ. Từ khóa: Con người, tự nhiên, đạo đức môi trường, phát triển bền vững.1. Mở đầu Đạo đức là một trong những phương thức căn bản điều chỉnh hành vi của con ngườitrong quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình. Là một lĩnh vực đặcthù của đạo đức, biểu hiện trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đạo đức môitrường đã hình thành, phát triển và ngày càng trở nên cần thiết đối với mọi quốc gia trongđó có Việt Nam. Lịch sử nhân loại từ trước đến nay thực chất là lịch sử của mối quan hệgiữa con người với tự nhiên, con người với xã hội và với chính bản thân mình. C.Mác đãtừng khẳng định: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhânriêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xãhội” [1]. Con người với tư cách là một thực thể xã hội, bằng hoạt động thực tiễn của mìnhtác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triểncủa lịch sử xã hội. Tuy nhiên, xã hội càng phát triển thì sự tác động của con người vàotự nhiên đang bộc lộ nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đòi hỏi con người phải đối xử mộtcách có đạo đức với tự nhiên để đảm bảo yêu cầu cho phát triển bền vững. Vì vây, nghiêncứu đạo đức môi trường và giáo dục nó cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết, cóý nghĩa cả về phương diện lí luận và thực tiễn.Ngày nhận bài: 15/08/2013. Ngày nhận đăng: 15/01/2014.Liên hệ: Nguyễn Thị Thọ, e-mail: thodhsp@gmail.com. 143 Nguyễn Thị Thọ2. Nội dung nghiên cứu2.1. Đạo đức môi trường Tư tưởng về sự tương đồng, hoà hợp giữa con người và tự nhiên, tình yêu thươnggiữa con người với con người, giữa con người với vạn vật đã được đề cập đến cả trongtriết học phương Đông và phương Tây và trong các tôn giáo từ xa xưa. Nhưng, cùng vớisự phát triển của lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của nhận thức, của khoa học côngnghệ; sự thay đổi trong quan niệm, lối sống con người đang dần phá vỡ mối quan hệ vớitự nhiên, đang phá vỡ quy luật tự nhiên, làm cho tự nhiên biến đổi mạnh mẽ theo chiềuhướng không có lợi cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Thựctiễn lịch sử đang đòi hỏi, muốn có sự phát triển bền vững thì con người cần có thái độđúng đắn với tự nhiên, cần bảo vệ môi trường sống một cách tự giác và tự nguyện. Triếtgia Mĩ Aldo Leopold, người được coi là đã đưa ra những đánh giá đầu tiên về mặt đạo đứcgiữa con người với tự nhiên, là người sáng lập Đạo đức học môi trường đã khẳng định:“Hành động tốt là hành động nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, sự ổn định và vẻ đẹp của cộngđồng sinh vật, còn ngược lại thì đó là hành động xấu” [2]. Từ khi xuất hiện đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất, vẫn còn nhiều luậnbàn, đến năm 1979, thuật ngữ Đạo đức học môi trường và tương ứng với nó là Đạo đứcmôi trường mới từng bước được sử dụng một cách phổ biến. Ngày nay, khi nói đến Đạođức học môi trường hoặc Đạo đức môi trường là người ta muốn nói đến “một phương diệncủa phát triển. Nó thật sự có vai trò và ý nghĩa không thể thay thế trong việc bảo vệ môitrường, trái đất - ngôi nhà chung của nhân loại” [3]. Trên bình diện đạo đức, sự phản ánh yêu cầu của phát triển bền vững, của bảo vệmôi trường vào ý thức đạo đức con người, loài người, sự thể hiện ý thức đó trong thực tiễnphát triển xã hội và bảo vệ môi trường chính là ý thức và thực tiễn đạo đức môi trường. Dovậy, đạo đức môi trường được hiểu “là một phương diện của đạo đức nói chung, là sự thểhiện và thực hiện đạo đức xã hội trong lĩnh vực quan hệ giữa con người và tự nhiên” [4]. Để bảo vệ môi trường thì sự điều chỉnh bằng các công ước, luật môi trường haycác quy chế là chưa đủ. Nên đạo đức môi trường có vai trò to lớn và không thể thiếu đượctrong việc điều chỉnh mọi hành vi trong quan hệ giữa con người và tự nhiên. Sự ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí khoa học Giáo dục môi trường Giáo dục đạo đức môi trường Đạo đức môi trường Biến đổi khí hậu Ô nhiễm môi trườngGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 294 0 0
-
báo cáo chuyên đề GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
78 trang 287 0 0 -
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 269 0 0 -
30 trang 236 0 0
-
5 trang 232 0 0
-
Hạ tầng xanh – giải pháp bền vững cho thoát nước đô thị
17 trang 231 1 0 -
Môi trường sinh thái và đổi mới quản lý kinh tế: Phần 2
183 trang 212 0 0 -
10 trang 211 0 0
-
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 208 0 0 -
13 trang 208 0 0