Lớp Ko-hyoteki (甲標的 (Nd: Giáp Biểu Đích?), Kō-hyōteki?, "Mục tiêu loại A") là một lớp tàu ngầmbỏ túi của Nhật được dùng trong Thế chiến II. Chúng có các số trên thân nhưng không có tên. Cho đơngiản (Nd: For simplicity), chúng hầu như thường được tham chiếu đến bởi số trên thân của tàu ngầm mẹ.Do đó, chiếc bỏ túi mà được mang bởi イ -16 thì được biết là tàu của I-16, hay "I-16tou". Số trên thân củatàu ngầm bỏ túi bắt đầu bằng kí tự "HA" (Nd: đọc đúng là “ha” theo tiếng Nhật, không phải H-A?),...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tàu ngầm lớp Ko-hyoteki Bắt đầu dịch: 11:28, 14-08-2010Tàu ngầm lớp Ko-hyotekiTừ Wikipedia, bách khoa toàn thư tự doNhảy đến: navigation, search This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding reliable references. Unsourced material may be challenged and removed. (May 2009) Tàu ngầm lớp Ko-hyoteki, HA-19, bị mắc cạn (Nd: grounded) trong sóng nhào (Nd: in the surf) ở Oahu sau cuộc tấn công lên Trân Châu cảng, tháng Chạp 1941 Tổng quan về lớpQuốc gia vận hành: Đế quốc Nhật BảnĐã hoàn tất: 50 Các đặc tính chungLoại: Tàu ngầm bỏ túi lớp Ko-hyoteki (甲標的?, Mục tiêu loại A (Nd: Type A Target))Độ choán nước: 46 tấn Anh (Nd: long tons) (47 t) khi lặn[1]Chiều dài: 23,9 m (78 ft 5 in)[1]Chiều rộng (Nd: 1,8 m (5 ft 11 in)[1]Beam):Chiều cao: 3 m (9 ft 10 in)Lực đẩy: 192 khay, mỗi khay chứa hai pin hai volt (Nd: 192 trays of two two-volt cells each), 136 khay phía trước 56 khay phía sau 1 × động cơ điện, 600 hp (447 kW)[1] ở 1800 rpm (Nd: vòng mỗi phút) 2 × chân vịt (Nd: screws) quay ngược chiều nhau (Nd: counter-rotating) trên trục đơn (Nd: on single shaft; hai chân vịt đồng trục?) chân vịt phía trước (Nd: leading prop) 1,35 m đường kính, quay sang phải/ theo chiều kim đồng hồ (Nd: right-handed; ?); chân vịt phía sau (Nd: trailing prop) 1,25 m đường kính, quay sang trái/ ngược chiều kim đồng hồ (Nd: left-handed; ?)Vận tốc: 23 knot (43 km/h; 26 mph) nổi 19 knot (35 km/h; 22 mph) chìm[1]Tầm: 100 nmi (190 km) ở 2 kn (3,7 km/h; 2,3 mph)[1] 80 nmi (150 km) ở 6 kn (11 km/h; 6,9 mph) 18 nmi (33 km) ở 19 kn (35 km/h; 22 mph)Độ sâu thử nghiệm: 30 m (98 ft)[1]Quân số đầy đủ: 2[1]Vũ khí: • 2 × ngư lôi 450 mm (17,7 in), được nạp từ đầu nòng (Nd: muzzle-loaded) vào các ống[1] • 1 × khối nổ đục thủng đáy tàu (Nd: scuttling) 300 lb (140 kg)Các chú thích (Nd: Vật dằn (Nd: Ballast): 2.670 kg (5.900 lb) trong 534 × thanh chì (Nd: lead bars)Notes): 5 kgLớp Ko-hyoteki (甲標的 (Nd: Giáp Biểu Đích?), Kō-hyōteki?, Mục tiêu loại A) là một lớp tàu ngầmbỏ túi của Nhật được dùng trong Thế chiến II. Chúng có các số trên thân nhưng không có tên. Cho đơngiản (Nd: For simplicity), chúng hầu như thường được tham chiếu đến bởi số trên thân của tàu ngầm mẹ.Do đó, chiếc bỏ túi mà được mang bởi イ -16 thì được biết là tàu của I-16, hay I-16tou. Số trên thân củatàu ngầm bỏ túi bắt đầu bằng kí tự HA (Nd: đọc đúng là “ha” theo tiếng Nhật, không phải H-A?), màchỉ được biết bởi các giấy tờ mà được mang bởi thủy thủ đoàn.Contents 1 History • 2 Pearl Harbor attack • 3 Japanese midget submarine attacks on Sydney • 4 Japanese midget submarine attacks on Madagascar • 5 See also • 6 References •[biên tập] Lịch sửNăm mươi chiếc đã được đóng. Tên “Mục tiêu A” (Nd: The A Target name) đã được gán như một mưumẹo — nếu mẫu thiết kế của chúng bị khám phá sớm bởi các kẻ địch của Nhật, Hải quân Nhật Bản có thểkhăng khăng rằng các tàu này là các mục tiêu luyện tập chiến đấu. Chúng được gọi là các ống (筒 (Nd:tou (tiếng Nhật)?, thông (âm Hán Việt?)) và các tên lóng khác.Hai chiếc đầu tiên, Ha-1 và Ha-2, đã được dùng chỉ cho việc thử nghiệm. Chúng không có các tháp chỉhuy, mà được thêm vào cho các tàu sau đó cho sự ổn định dưới nước.Ha-19 đã được hạ thủy/ phóng bởi I-24 ở Trân Châu cảng. Hầu hết năm mươi chiếc kia thì không đượcgiải thích (Nd: are unaccounted for), dù ba chiếc đã bị bắt (Nd: captured) ở Sydney (Úc), và những chiếckhác ở Guam, Guadalcanal và đảo Kiska, giải thích cho vài trong số các số trên thân còn lại.Các tàu ngầm này mỗi chiếc được vũ trang bằng hai ngư lôi 450 mm trong các ống được nạp từ đầu nòng(Nd: muzzle-loading tubes) cái này bên trên cái kia ở mạn trái đằng mũi (Nd: on the port bow; ?). Trongcuộc tấn công Trân Châu cảng, ngư lôi Type 97 thiết kế đặc biệt đã được dùng, nhưng các vấn đề với cácchai oxygen[cần sự tường minh (Nd: clarification needed)] có nghĩa rằng tất cả các cuộc tấn công sau nàyđã dùng một ngư lôi khác. Vài người đã phát biểu rằng một phiên bản của ngư lôi Type 91, mà được thiếtkế cho việc phóng bằng máy bay, đã được dùng, nhưng các báo cáo khác[2] chỉ ra rằng ngư lôi Type 97đã được biến cải thành Type 98, mặt khác thì (Nd: otherwise) được biết là Type 97 đặc biệt. Không cóthông tin dứt khoát nào rằng Type 91 đã được dùng. Type 98 sau đó bị hất cẳng (Nd: supplanted) bởi ngưlôi Type 02. Cũng có một khối nổ phá hủy (Nd: demolition charge) mà gợi ra rằng (Nd: which it has beensuggested) là đủ lớn để cho phép (Nd: enable) chiếc tàu ngầm được dùng như một vũ khí cảm tử/ tự sát(Nd: suicide weapon), nhưng không có bằng chứng nào rằng nó đã từng được sử dụng như thế (Nd: butthere is no evidence that it was ever used as one).Mỗi tàu ngầm có một thủy thủ đoàn hai người. Một sĩ quan cấp dưới (Nd: junior officer) lái chiếc tàutrong khi một hạ sĩ quan hải quân (Nd: petty officer) thao tác các valve và di chuyển vật dằn (Nd: andmoved ballast) để điều khiển độ chênh và sự lặn.[1][edit] Cuộc tấn công Trân Châu cảngMục chính: Cuộc tấn công lên Trân Châu cảngNăm trong số các tàu này đã tham gia vào cuộc tấn công Trân Châu cảng, với hai chiếc thực sự đã làmviệc tấn công vào cảng ...