Danh mục

Biber (Hải li), tàu ngầm bỏ túi của phát xít Đức

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 297.16 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Biber (tàu ngầm bỏ túi của phát xít Đức) từ Wikipedia, bách khoa toàn thư tự do
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biber (Hải li), tàu ngầm bỏ túi của phát xít ĐứcBắt đầu dịch: 20:45, 14-08-2010Biber (tàu ngầm)Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư tự doJump to: navigation, search Mẫu đang trưng bày ở Technikmuseum Speyer, Đức Tổng quan về lớpTên: BiberNhà vận hành: Kriegsmarine Các đặc tính chung của BiberLoại: Tàu ngầm bỏ túiĐộ choán nước: 5,7 tấn[1]Chiều dài: 8,9 m[2]Chiều rộng (Nd: 1,6 m[2]Beam):Chiều cao: 1,6 mLực đẩy: Động cơ xăng (Nd: petrol) Otto 32hp[2], động cơ điện 13hp[2],Vận tốc: 6,5 knot (Nd: hơn 12km/giờ) nổi 5,3 knot (Nd: gần 10km/giờ) lặnTầm: 100 hải lý (Nd: hơn 185km) (nổi)Độ sâu thử 20 m tối đa[3]nghiệm:Thủy thủ đoàn: 1Vũ khí: hai ngư lôi TIIIc hay hai mìnChiếc Biber (tiếng Đức cho hải ly) là một tàu ngầm bỏ túi của Đức của Đệ nhị Thế chiến. Được vũtrang bằng hai ngư lôi 21 inch (53 cm) hay mìn gắn ngoài, chúng được dự định để tấn công tàu bè duyênhải. Chúng đã là các tàu ngầm nhỏ nhất trong Kriegsmarine.Chiếc Biber được phát triển một cách hấp tấp để giúp đương đầu với mối đe dọa của một cuộc xâm lấnchâu Âu của phe Đồng minh. Điều này đã gây ra các thiếu sót về kỹ thuật cơ bản mà, được kết hợp với sựhuấn luyện không thỏa đáng những người vận hành chúng, có nghĩa rằng chúng chưa bao giờ tỏ ra (Nd:posed) là một mối đe dọa thực sự cho tàu bè Đồng minh, bất chấp 324 tàu ngầm được phóng phát (Nd:delivered). Một trong số ít thành công của lớp này là vụ đánh chìm chiếc tàu hàng (Nd: cargo ship) AlanA. Dale.Một số đã sống sót trong các bảo tàng mà gồm một mẫu mà đã được phục hồi trở về điều kiện hoạt động.Contents 1 Development • 2 Design • 3 Operation • • 3.1 Fécamp harbour • 3.2 Operations in the Scheldt Estuary • 3.3 Attempted attack on Vaenga Bay 4 Further developments • 5 Surviving examples • 6 References • 7 Bibliography • 8 External links •[biên tập] Sự phát triểnSự xây dựng nguyên mẫu đầu tiên bắt đầu vào tháng Hai 1944 và đã hoàn tất trong chưa đến 6 tuần. [4]Nguyên mẫu ban đầu chính thức được đặt tên (Nd: titled) là Bunteboot (mà được biết là Adam nhiều hơn)đã bị ảnh hưởng nặng bởi tàu ngầm Welman của Anh.[4] Nó khác với mẫu thiết kế cuối cùng ở một sốphương diện như là ngắn hơn gần 2 mét.[4] Tiếp theo sự thử nghiệm trên sông Trave vào ngày 29 thángNăm, hai mươi bốn chiếc Biber đã được đặt hàng.[4][edit] Mẫu thiết kếCác điều khiển của một tàu ngầm BiberVỏ được đóng thành ba phân đoạn (Nd: three sections) gồm thép dày 3 mm với một tháp chỉ huy (Nd:conning tower; thật ra vì chỉ có một người lái nên chẳng ai chỉ huy ai) hợp kim nhôm mà được bắt bù-loong (Nd: bolted) lên phía trên (Nd: to the top).[3] Tháp chỉ huy chứa các cửa sổ kính được bọc giáp(Nd: armoured glass windows) để cho phép người hoa tiêu (Nd: pilot) nhìn thấy bên ngoài (Nd: to seeout).[3] Các hydroplane (Nd: tấm điều khiển thủy động lực?) và tấm lái đứng (Nd: rudder) được làm bằnggỗ và việc cố điều khiển chúng trong khi theo dõi máy đo độ sâu, la bàn và kính tiềm vọng làm cho chiếctàu khó điều khiển.[3] Thêm vào các khó khăn của người hoa tiêu, chiếc tàu thiếu các bồn bù trừ và chỉnhđộ chênh (Nd: lacked compensating and trimming tanks), làm cho việc duy trì ở độ sâu kính tiềm vọng làđiều gần như không thể.[3] Chiếc Biber có hai bồn lặn (Nd: diving tanks), một ở phần mũi và một ở đuôitàu.[1]Chiếc tàu ngầm có thể được vũ trang bằng hoặc là hai ngư lôi TIIIc với độ nổi trung tính (Nd: neutralbuoyancy) (mà đạt được bằng cách giới hạn số các ắc-quy trong ngư lôi (Nd: on board)), các mìn hoặc làmột hỗn hợp của hai thứ.[5]Chiếc Biber được cấp lực trên bề mặt bởi một động cơ xăng (Nd: petrol) Otto blitz 32 mã lực (Nd: 32hpOtto blitz petrol engine) mà được dùng bất chấp các lo ngại về các nguy cơ mà gây ra bởi (Nd: posed by)carbon monoxide mà động cơ thải ra. [1] Chiếc động cơ này có lợi thế là rẻ và có sẵn theo số lượng lớn.[1] Sự đẩy trong khi lặn được cung cấp bởi một động cơ điện 13 mã lực mà được cấp lực bởi ba máng ắc-quy T210 loại T13 (Nd: three Type T13 T210 battery troughs).[1][edit] Sự hoạt độngCác hoạt động của Biber được tiến hành dưới sự bảo trợ của K-Verband[2], một đơn vị hải quân Đức màvận hành một hỗn hợp các tàu ngầm bỏ túi và các thuyền cao tốc chứa chất nổ (Nd: explosivespeedboats). Sự huấn luyện những người vận hành Biber ban đầu được dự định là mất tám tuần, nhưngnhóm các hoa tiêu ban đầu đã bị xô đẩy đi qua chỉ trong ba tuần.[6] Sự dự định cũng yêu cầu (Nd: calledfor) các đội tàu nhỏ (Nd: flotillas) 30 tàu và hoa tiêu với chỉ dưới 200 đội hỗ trợ bờ biển (Nd: with justunder 200 shore support crew).[6]Các hoạt động nói chung kéo dài từ một đến hai ngày với các hoa tiêu dùng hoặc là một thuốc được biếtnhư là DIX để giữ tỉnh táo trong các nhiệm vụ dài hơn hoặc là sô-cô-la có pha thêm caffeine.[7] Chấtlượng kém của kính tiềm vọng của Biber có nghĩa rằng các cuộc tấn công đêm phải được tiến hành trênbề mặt.[8][biên tập] Cảng FécampCác bề mặt điều khiển và bộ phận đẩy (Nd: propeller; chân vịt) của Biber 105Cuộc hành quân (Nd: operation) Biber đầu tiên đã được mở (Nd: was launched) vào ngày 30 tháng Tám1944 từ cảng Fécamp.[7] Hai mươi hai tàu đã được hạ thủy (Nd: launched) nhưng chỉ 14 chiếc là có thểrời cảng và trong số mười bốn chiếc đó, chỉ có hai chiếc là xoay xở mà đến được khu vực hành quân (Nd:operational area) của chúng. Các Biber sau đó được cho rút về Mönchengladbach.[7][edit] Các cuộc hành quân (Nd: Operations) ở cửa sông Scheldt (Nd: ScheldtEstuary)Vào tháng Chạp 1944, việc triển khai các Biber chống lại sự giao thông đến Antwerp ở cửa sông Scheldtđược quyết định.[8] Lực lượng này được đặt căn cứ ở Rotterdam với các tiền đồn (Nd: forward bases) ởPoorters ...

Tài liệu được xem nhiều: