Tên họ Việt Nam
Số trang: 37
Loại file: pdf
Dung lượng: 195.87 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Không có sử liệu nào nói về nguồn gốc tên họ tại Việt Nam. Do vậy, ta phải nghiên cứu các vấn đề: (1)người Việt có tên họ từ bao giờ, (2) sự du nhập tên họ người Tàu vào xã hội Việt Nam, (3) tên họ do người Việt tự đặt, (4) người Việt bị bắt buộc hay bắt chước nhận tên họ, (5) sơ lược nguồn gốc những tên họ phổ biến nhất Việt Nam.1. Người Việt Có Tên Họ Tự Bao Giờ: Trong phần nghiên cứu về đế hiệu Hùng Vương ở chương một, chúng tôi đã...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tên họ Việt NamTên họ Việt NamNGUỒN GỐC TÊN HỌ VIỆT NAMKhông có sử liệu nào nói về nguồn gốc tên họ tại Việt Nam.Do vậy, ta phải nghiên cứu các vấn đề: (1)người Việt có tênhọ từ bao giờ, (2) sự du nhập tên họ người Tàu vào xã hộiViệt Nam, (3) tên họ do người Việt tự đặt, (4) người Việt bịbắt buộc hay bắt chước nhận tên họ, (5) sơ lược nguồn gốcnhững tên họ phổ biến nhất Việt Nam.1. Người Việt Có Tên Họ Tự Bao Giờ: Trong phần nghiêncứu về đế hiệu Hùng Vương ở chương một, chúng tôi đã đưara quan điểm cho rằng đế hiệu Hùng Vương là do người sauđặt cho các vị lãnh đạo ban đầu của nước ta, nên không thểnói Việt Nam đã có tên họ từ thời Hùng Vương, tức cách đâyhơn 5000 năm. Giai đoạn này, dân ta chưa có ý niệm về dònghọ theo lối phụ hệ như kiểu Trung Quốc. Đến thời Thục Phánvà Triệu Đà (257-111 TCN), ta không thể nói Việt Nam đãcó tên họ. Hai ông này là người Trung Quốc vì chống Tần,Hán mà sang nước ta. Đến thời Hai Bà Trưng, xã hội ViệtNam vẫn còn trong thời kỳ mẫu hệ. Theo các nhà tính danhhọc, tên họ xuất hiện đồng thời với sự ra đời của chế độ phụhệ. Chỉ khi xã hội Việt Nam đã tiến hóa, cộng với ảnh hưởngcủa văn hóa Trung Quốc, và có những cuộc hôn nhân dịchủng Hán Việt, thì lúc đó Việt Nam mới chính thức có tênhọ và các tên họ này giống với tên họ Trung Quốc. Kết luậnnày có thể chấp nhận được vì nhiều đồng bào Thượng ở ViệtNam, ít bị ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, đến giữa thế kỷ20 vẫn chưa có tên họ. Như vậy, sớm nhất Việt Nam có tênhọ vào khoảng đầu Công Nguyên.Tuy thế, nếu chúng tôi không lầm, Việt Nam là nước thứ haitrên thế giới, sau Trung Quốc, sớm có hệ thống tên họ theolối phụ hệ. Mãi đến thế kỷ thứ 10, hệ thống tên họ của ÂuChâu mới bắt đầu hình thành, và đến thế kỷ 16 mới hoàn tất.Nhật Bản, theo ông Elsdon C. Smith, mãi đến đời Minh TrịThiên Hoàng, toàn dân Nhật mới có tên họ. Các dân tộc ở PhiChâu, theo bách khoa từ điển Britannica, mới bắt chước tâyphương lấy tên họ từ đầu thế kỷ 20[28]. Năm 1935, chínhphủ Thổ Nhĩ Kỳ ra lệnh buộc người dân phải lấy tên họ. ĐầuCông Nguyên, người Do Thái chưa có tên họ, chỉ có tên gọi,người ta gọi Chúa Giêsu, bà Maria, thánh Phaolô. Mãi đếnđầu thế kỷ thứ 19, dân Do Thái mới có tên họ. Nhiều tên họmà dân tộc này chọn là các từ ngữ liên quan đến các chức tưtế của Do Thái Giáo như Cantor, Canterini, Kantorowicz,nghĩa là các thày cả hạ phẩm (lower priest), các tên Kohn,Cohen, Cahen, Kaan, Kahane nghĩa là thày cả thượng phẩm(highest priest).2. Việc Du Nhập Tên Họ Người Tàu Vào Việt Nam: Tênhọ tại Việt Nam xuất phát từ hai nguồn chính. Một là các tênhọ Trung Quốc, hai là tên họ do người Việt Nam tự đặt. Vềcác tên họ Trung Quốc mà ta có hiện nay được du nhập vàoViệt Nam qua các giai đoạn lịch sử sau:a. Thời bị đô hộ: Trong hơn 1000 năm Việt Nam bị TrungQuốc đô hộ, sử cũ cho chúng ta nhiều bằng chứng nhữngngười Tàu như quan lại, binh lính, quý tộc, thương gia, nhosĩ, tội nhân bị đi đầy, dân nghèo, đã sang nước ta. Họ và giathuộc đã ở lại, thông hôn với người Việt và biến thành ngườibản xứ. Chính những lớp người này đã đem đến đa số họ màngười Việt Nam có hiện nay. Xin trích ba ví dụ điển hình đểchứng minh:Lý Bôn, còn gọi là Lý Bí, là dòng dõi người Tàu. Ông tổ bảyđời di cư sang Giao Châu lánh nạn từ cuối thời Tần, Hán[29].Hồ Quý Ly, nguyên dòng dõi người Chiết Giang, có ông tổ làHồ Hưng Dật, di cư sang nước ta đời Ngũ Quý (907-959) ởlàng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu, Thanh Hóa[30]. Về sự laigiống bố Tàu mẹ Việt, theo ông Vũ Hiệp, thủy tổ dòng họ Vũtại Việt Nam là ông tổ Vũ Hồn giữ chức Kinh Lược Sứ vàonăm 841. Ông có mẹ người Việt tên là Nguyễn Thị Đức vàcha là ông Vũ Huy người Phúc Kiến, Trung Quốc[31].b. Người Minh Hương: Người Minh Hương sang nước tavào thế kỷ 17 và 18. Nhóm người này tập trung nhiều ở miềnTrung và Nam Việt Nam nên đã đem một số tên họ Tàu vàoViệt Nam. Những nhân vật lịch sử như Trịnh Hoài Đức, MạcThiên Tích, nhà thơ Quách Tấn đều là người Minh Hương.Năm 1965, ở Chợ Lớn có 80 tỷ phú gốc Hoa được gọi là các“vua”. Các ông “vua” này có tên họ mà ta thường thấy trongxã hội Việt Nam như: Lâm Huệ Hồ hoạt động trong ngànhtín dụng, Lý Long Thân: dệt, Mã Hí: mễ cốc, Trần Thành:bột ngọt, Đào Mậu: ngân hàng, Trương Vĩnh Niên: phim ảnh,Trần Thoại Hà: trà, Lai Kim Dung: gạo, Vương Đạo Nghĩa:kem đánh răng, Lý Sen: sắt thép, Lưu Kiệt: nông cơ, v.v…3. Tên Họ Do Người Việt Nam Tự Đặt: Đối với các tên họdo người Việt Nam tự đặt, sử liệu cho thấy một số họ đượcvua chúa Việt Nam đặt cho các sắc dân thiểu số trong thờigian gần đây. Giáo sư Hà Mai Phương[32] trích sử liệu trongĐại Nam Thực Lục cho biết, thời Hậu Lê, các viên quanngười thiểu số ở 9 châu thuộc vùng Thanh Hóa, Nghệ Anđược vua ban tên họ. Tuy nhiên, sử không cho biết các tên họnày là gì.Theo Đại Nam Thực Lục, năm 1826, vua Minh Mạng chocác quan đang cai trị Cao Miên được phép đặt lại địa danh vàđ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tên họ Việt NamTên họ Việt NamNGUỒN GỐC TÊN HỌ VIỆT NAMKhông có sử liệu nào nói về nguồn gốc tên họ tại Việt Nam.Do vậy, ta phải nghiên cứu các vấn đề: (1)người Việt có tênhọ từ bao giờ, (2) sự du nhập tên họ người Tàu vào xã hộiViệt Nam, (3) tên họ do người Việt tự đặt, (4) người Việt bịbắt buộc hay bắt chước nhận tên họ, (5) sơ lược nguồn gốcnhững tên họ phổ biến nhất Việt Nam.1. Người Việt Có Tên Họ Tự Bao Giờ: Trong phần nghiêncứu về đế hiệu Hùng Vương ở chương một, chúng tôi đã đưara quan điểm cho rằng đế hiệu Hùng Vương là do người sauđặt cho các vị lãnh đạo ban đầu của nước ta, nên không thểnói Việt Nam đã có tên họ từ thời Hùng Vương, tức cách đâyhơn 5000 năm. Giai đoạn này, dân ta chưa có ý niệm về dònghọ theo lối phụ hệ như kiểu Trung Quốc. Đến thời Thục Phánvà Triệu Đà (257-111 TCN), ta không thể nói Việt Nam đãcó tên họ. Hai ông này là người Trung Quốc vì chống Tần,Hán mà sang nước ta. Đến thời Hai Bà Trưng, xã hội ViệtNam vẫn còn trong thời kỳ mẫu hệ. Theo các nhà tính danhhọc, tên họ xuất hiện đồng thời với sự ra đời của chế độ phụhệ. Chỉ khi xã hội Việt Nam đã tiến hóa, cộng với ảnh hưởngcủa văn hóa Trung Quốc, và có những cuộc hôn nhân dịchủng Hán Việt, thì lúc đó Việt Nam mới chính thức có tênhọ và các tên họ này giống với tên họ Trung Quốc. Kết luậnnày có thể chấp nhận được vì nhiều đồng bào Thượng ở ViệtNam, ít bị ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, đến giữa thế kỷ20 vẫn chưa có tên họ. Như vậy, sớm nhất Việt Nam có tênhọ vào khoảng đầu Công Nguyên.Tuy thế, nếu chúng tôi không lầm, Việt Nam là nước thứ haitrên thế giới, sau Trung Quốc, sớm có hệ thống tên họ theolối phụ hệ. Mãi đến thế kỷ thứ 10, hệ thống tên họ của ÂuChâu mới bắt đầu hình thành, và đến thế kỷ 16 mới hoàn tất.Nhật Bản, theo ông Elsdon C. Smith, mãi đến đời Minh TrịThiên Hoàng, toàn dân Nhật mới có tên họ. Các dân tộc ở PhiChâu, theo bách khoa từ điển Britannica, mới bắt chước tâyphương lấy tên họ từ đầu thế kỷ 20[28]. Năm 1935, chínhphủ Thổ Nhĩ Kỳ ra lệnh buộc người dân phải lấy tên họ. ĐầuCông Nguyên, người Do Thái chưa có tên họ, chỉ có tên gọi,người ta gọi Chúa Giêsu, bà Maria, thánh Phaolô. Mãi đếnđầu thế kỷ thứ 19, dân Do Thái mới có tên họ. Nhiều tên họmà dân tộc này chọn là các từ ngữ liên quan đến các chức tưtế của Do Thái Giáo như Cantor, Canterini, Kantorowicz,nghĩa là các thày cả hạ phẩm (lower priest), các tên Kohn,Cohen, Cahen, Kaan, Kahane nghĩa là thày cả thượng phẩm(highest priest).2. Việc Du Nhập Tên Họ Người Tàu Vào Việt Nam: Tênhọ tại Việt Nam xuất phát từ hai nguồn chính. Một là các tênhọ Trung Quốc, hai là tên họ do người Việt Nam tự đặt. Vềcác tên họ Trung Quốc mà ta có hiện nay được du nhập vàoViệt Nam qua các giai đoạn lịch sử sau:a. Thời bị đô hộ: Trong hơn 1000 năm Việt Nam bị TrungQuốc đô hộ, sử cũ cho chúng ta nhiều bằng chứng nhữngngười Tàu như quan lại, binh lính, quý tộc, thương gia, nhosĩ, tội nhân bị đi đầy, dân nghèo, đã sang nước ta. Họ và giathuộc đã ở lại, thông hôn với người Việt và biến thành ngườibản xứ. Chính những lớp người này đã đem đến đa số họ màngười Việt Nam có hiện nay. Xin trích ba ví dụ điển hình đểchứng minh:Lý Bôn, còn gọi là Lý Bí, là dòng dõi người Tàu. Ông tổ bảyđời di cư sang Giao Châu lánh nạn từ cuối thời Tần, Hán[29].Hồ Quý Ly, nguyên dòng dõi người Chiết Giang, có ông tổ làHồ Hưng Dật, di cư sang nước ta đời Ngũ Quý (907-959) ởlàng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu, Thanh Hóa[30]. Về sự laigiống bố Tàu mẹ Việt, theo ông Vũ Hiệp, thủy tổ dòng họ Vũtại Việt Nam là ông tổ Vũ Hồn giữ chức Kinh Lược Sứ vàonăm 841. Ông có mẹ người Việt tên là Nguyễn Thị Đức vàcha là ông Vũ Huy người Phúc Kiến, Trung Quốc[31].b. Người Minh Hương: Người Minh Hương sang nước tavào thế kỷ 17 và 18. Nhóm người này tập trung nhiều ở miềnTrung và Nam Việt Nam nên đã đem một số tên họ Tàu vàoViệt Nam. Những nhân vật lịch sử như Trịnh Hoài Đức, MạcThiên Tích, nhà thơ Quách Tấn đều là người Minh Hương.Năm 1965, ở Chợ Lớn có 80 tỷ phú gốc Hoa được gọi là các“vua”. Các ông “vua” này có tên họ mà ta thường thấy trongxã hội Việt Nam như: Lâm Huệ Hồ hoạt động trong ngànhtín dụng, Lý Long Thân: dệt, Mã Hí: mễ cốc, Trần Thành:bột ngọt, Đào Mậu: ngân hàng, Trương Vĩnh Niên: phim ảnh,Trần Thoại Hà: trà, Lai Kim Dung: gạo, Vương Đạo Nghĩa:kem đánh răng, Lý Sen: sắt thép, Lưu Kiệt: nông cơ, v.v…3. Tên Họ Do Người Việt Nam Tự Đặt: Đối với các tên họdo người Việt Nam tự đặt, sử liệu cho thấy một số họ đượcvua chúa Việt Nam đặt cho các sắc dân thiểu số trong thờigian gần đây. Giáo sư Hà Mai Phương[32] trích sử liệu trongĐại Nam Thực Lục cho biết, thời Hậu Lê, các viên quanngười thiểu số ở 9 châu thuộc vùng Thanh Hóa, Nghệ Anđược vua ban tên họ. Tuy nhiên, sử không cho biết các tên họnày là gì.Theo Đại Nam Thực Lục, năm 1826, vua Minh Mạng chocác quan đang cai trị Cao Miên được phép đặt lại địa danh vàđ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tên họ Việt Nam bản sắc văn hóa việt phong tục tập quán lịch sử Việt Nam lễ hội việt nam văn hóa ViệtGợi ý tài liệu liên quan:
-
79 trang 413 2 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
69 trang 80 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động mai táng: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện
11 trang 58 0 0 -
Văn hoá ẩm thực dân gian Mường
4 trang 54 0 0 -
11 trang 50 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 49 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 46 0 0