Danh mục

Thâm hụt ngân sách

Số trang: 14      Loại file: doc      Dung lượng: 80.00 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cân bằng thu chi ngân sách và khống chế bội chi quá mức theo tỷ lệ nhất định so với GDP là nỗ lực của mọi nền kinh tế. Tuy nhiên, bội chi ở từng thời điểm còn là công cụ để tăng trưởng kinh tế hoặc là liều thuốc để cứu nguy khi kinh tế bước vào suy thoái.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thâm hụt ngân sách I-Thâm hụt ngân sáchCân bằng thu chi ngân sách và khống chế bội chi quá mức theo tỷ lệ nhấtđịnh so với GDP là nỗ lực của mọi nền kinh tế. Tuy nhiên, bội chi ở từngthời điểm còn là công cụ để tăng trưởng kinh tế hoặc là liều thuốc đểcứu nguy khi kinh tế bước vào suy thoái. Song, nếu chấp nhận tình trạngbội chi cao trong thời gian dài thì không những đe dọa đến an ninh tàichính quốc gia mà còn đưa nền kinh tế vào vòng luẩn quẩnNếu đầu năm 2009, theo IMF “liều thuốc” kích thích kinh tế thế giới tốithiểu chỉ là 1.200 tỷ USD (2% GDP toàn cầu) thì đến nay nhu cầu thực đãlên tới hơn 4.000 tỷ USD. Như vậy, để đối phó với khủng hoảng, thế giớiđã và đang sử dụng một nguồn lực quá lớn, tốc độ phản ứng cực nhanh.Tuy cách thức ứng xử của mỗi nước khác nhau, nhưng đều chung một vaitrò chủ công là sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN).Ở Việt Nam, thời kỳ từ 2003 đến hết năm 2008, số vốn giải ngân đạt59.812 tỷ VND, bằng 54% kế hoạch giai đoạn 2003-2010. Năm 2008, giảingân 21.342,4 tỷ, bằng 73,4 % kế hoạch. Gánh nặng NSNN càng lớn khitổng mức đầu tư tăng do nhiều dự án kéo dài cùng với sự biến động củagiá cả: năm 2003, tổng vốn trái phiếu Chính phủ là 63.064 tỷ, đến 2006lên 110.000 tỷ, đến nay dự kiến 230.496 tỷ đồng. Tình trạng giải ngânchậm, công trình kéo dài, gây lãng phí, hiệu quả thấp, làm tổng mức đầutư tăng và không có điểm dừng…Yếu tố cơ bản và quan trọng nhất gây ra lạm phát năm 2008 là đầu tưkém hiệu quả; không vì phải chống suy giảm kinh tế mà chấp nhậnnhững dự án đầu tư, nhất là đầu tư NSNN và DNNN kém hiệu quả. Đầutư Nhà nước kém hiệu quả không chỉ là nguyên nhân sâu xa của lạm phátmà còn làm nền kinh tế kém sức cạnh tranh và gây hậu quả lâu dài, cơcấu kinh tế què quặt.Dự báo cuối năm 2009, lạm phát thế giới sẽ tăng cao với lượng tiềnkhổng lồ được các nước đổ ra để cứu nền kinh tế. Còn ở VN do hiệu ứnggói hỗ trợ lãi suất được phát huy, phát hành khối lượng lớn trái phiếuChính phủ, kể cả phương án vay NHNN để kích cầu nên nguy cơ lạmphát cao là hiện hữu. Nếu lạm phát quay trở lại Việt Nam sẽ cần tới 1-2năm để gia cố lại nền tảng phát triển.NSNN Việt Nam đã luôn ở trạng thái thâm hụt gần 5% GDP, nguồn thuphụ thuộc quá lớn vào yếu tố bên ngoài; không thể không nhắc lại bài học“khủng hoảng thập kỷ 80” mà nguyên nhân sâu xa và trực tiếp là thâm hụtNSNN cao. NSNN là công cụ chủ yếu chặn đà suy giảm tăng trưởngnhưng đang đối mặt với nhiều vấn đề nan giải, hụt thu từ 29.000 đến63.000 tỷ đồng, trong khi sức ép chi rất lớn...Ngoài 1 tỷ USD hỗ trợ lãi suất, thì các phương án ra vốn nhà nước nướcvay trên 60.000 tỷ đồng - ứng với thâm hụt NSNN 8,48% GDP. Việc xácđịnh qui mô kích cầu qua NSNN phải tính đến các nguy cơ, các cân đốilớn ở tầm vĩ mô, sức chịu đựng của NSNN, đặc biệt là sức hấp thụ vốn,hệ số ICOR. Việt Nam không khủng hoảng, song kích gần 5 tỷ USD(khoảng 5,4% GDP) thì thuộc diện cao nhất thế giới. Ngoài ra phải tínhtới các kịch bản, nếu kinh tế thế giới phục hồi chậm thì gói kích cầu lớnvà đầu ra bế tắc dễ lâm vào suy thoái và lạm phát cao. Hoặc giới hạn củakích cầu là xuất khẩu và thị trường nội địa thì vẫn chưa thỏa đáng vì mặcdù VN có một số lợi thế song không thể mơ hồ về tăng mạnh xuất khẩuhoặc tăng ngay nội nhu năm 2009. Nguồn kích cầu không phải là tiền chokhông, nhà nước cần phải xem hiệu quả mới đầu tư, nếu không, hậu quảsẽ rất nặng nề trong thời gian tới. Vấn đề trung tâm đặt ra là phải tái cấutrúc nền tài chính quốc gia, gia cố ngay cơ chế tài chính, thuế khoá và tíndụng đã bị méo mó, biến dạng lớn bởi hàng loạt các biện pháp tạm thời,điều chỉnh bất qui tắc diễn ra từ năm 2007 đến nay. Cùng với đó, cần cơcấu lại và hoàn thiện thể chế giám sát hệ thống tài chính - tiền tệ, thịtrường tài chính.Tuy nhiên, ngoài những điểm chung (giảm lãi suất, thuế, tăng đầu tư nhànước...) thì gói kích thích kinh tế của ta có điểm đặc thù nổi bật là “cơchế hỗ trợ lãi suất tín dụng ở mức 4%” bằng vốn NSNN thông qua hệthống ngân hàng. Ưu thế nổi trội của phương thức này là “hệ số khuếchđại” lớn: hỗ trợ 17.000 tỷ VND (1 tỷ USD) tạo ra hiệu ứng vay vốn gần500.000 tỷ VND (30 tỷ USD), giúp hệ thống ngân hàng có điều kiện đểlành mạnh hoá, tăng khả năng thanh toán. Vấn đề đặt ra làm thế nào đểvới lượng tiền rất hạn chế nhưng vẫn có thể chi tiêu hợp lý và hiệu quảcho các ưu tiên đặt ra. Đầu tư cho hạ tầng, giải quyết nút thắt cổ chai chotăng trưởng là đúng, nhưng sẽ tốt hơn nếu tạo ra chính sách khuyến khíchđầu tư nước ngoài vào khu vực này vừa đỡ tiêu tốn số tiền ngân sách eohẹp, vừa phát triển được hạ tầng mà không tạo thêm gánh nặng choNSNN.Việc mở rộng đối tượng hưởng hỗ trợ lãi suất 4% sang cả các khoản vaytrung và dài hạn để phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng kết cấu hạtầng- được WB, IMF đánh giá rất cao. Tuy nhiên, IMF lưu ý gói kích thíchmạnh có thể ảnh hưởng xấu đến tính bền vững của NSNN, còn ADB dự ...

Tài liệu được xem nhiều: