Danh mục

Thành phần axit béo của một số loại dầu thương mại có nguồn gốc từ động vật và thực vật

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 278.29 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thành phần axít béo của năm mẫu dầu thương mại (COD, UOD3, DHAC, OLI và COCO) được phân tích. Kết quả chỉ ra rằng thành phần axít béo phụ thuộc vào nguồn gốc của dầu. Dầu có nguồn gốc từ hải sản có chất lượng tốt hơn là dầu có nguồn gốc từ thực vật. Dầu có nguồn gốc từ hải sản có hàm lượng các axít béo omega-3 rất cao, chiếm từ 29,22% đến 71,63%, trong khi đó chúng chiếm tỷ lệ rất thấp trong các mẫu dầu có nguồn gốc từ thực vật, chiếm từ 0% đến 0,61%. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chỉ cần tiêu thụ dầu COD (3,72 g) hoặc UDO3 (1,47 g) hoặc DHAC (1,29 g/ngày) thì có thể đáp ứng nhu cầu tiêu thụ EPA và DHA/ngày có thể giảm rủi ro tử vong liên quan đến bệnh nhồi máu cơ tim và bệnh đột quỵ tim theo như khuyến cáo của các chuyên gia dinh dưỡng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thành phần axit béo của một số loại dầu thương mại có nguồn gốc từ động vật và thực vậtTẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 3(38).2010 THÀNH PHẦN AXÍT BÉO CỦA MỘT SỐ LOẠI DẦU THƯƠNG MẠI CÓ NGUỒN GỐC TỪ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT FATTY ACIDS COMPOSITION OF THE COMMERCIAL OILS ORIGINATED FROM PLANTS AND ANIMALS Nguyễn Xuân Duy, Đỗ Trọng Sơn Trina Lapis, Vanessa Leibero, Stuart Bộ môn Công nghệ Chế biến Thủy sản, Thomas, Tobias Pop Đại học Nha Trang, Việt Nam Trường Hải sản và Khoa học Đại Dương, Đại học Alaska Fairbanks, USA TÓM TẮT Thành phần axít béo của năm mẫu dầu thương mại (COD, UOD3, DHAC, OLI vàCOCO) được phân tích. Kết qủa chỉ ra rằng thành phần axít béo phụ thuộc vào nguồn gốc củadầu. Dầu có nguồn gốc từ hải sản có chất lượng tốt hơn là dầu có nguồn gốc từ thực vật. Dầucó nguồn gốc từ hải sản có hàm lượng các axít béo omega-3 rất cao, chiếm từ 29,22% đến71,63%, trong khi đó chúng chiếm tỷ lệ rất thấp trong các mẫu dầu có nguồn gốc từ thực vật,chiếm từ 0% đến 0,61%. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chỉ cần tiêu thụ dầu COD (3,72 g) hoặcUDO3 (1,47 g) hoặc DHAC (1,29 g/ngày) thì có thể đáp ứng nhu cầu tiêu thụ EPA và DHA/ngàycó thể giảm rủi ro tử vong liên quan đến bệnh nhồi máu cơ tim và bệnh đột quỵ tim theo nhưkhuyến cáo của các chuyên gia dinh dưỡng. Từ khóa: axít béo omega-3, EPA, DHA ABSTRACT Fatty acids composition of five commercial oils (COD, UOD3, DHAC, OLI and COCO)has been analyzed. The results show that the composition of fatty acid depends on the origin ofoils. Oils originated from sea fish have high quality than oils from plants. High omega-3 fattyacids content found in oils from sea fish ranges from 29.22% to 71.63%. Whereas, the valuesare very low for plant oils which vary from 0% to 0.61%. The research also indicates that theconsumption of COD (3.72 g) or UDO3 (1.47 g) or DHAC (1.29 g/day) can meet demand for thedaily intake of EPA and DHA, which can reduce the risk of deaths from coronary heart diseasesand sudden heart attack as recommended by nutritional experts. Keywords: omega-3 fatty acid, EPA, DHA1. Giới thiệu Hải sản là những nguồn tiềm năng của các axít béo thiết yếu [essential fattyacids (EFA)] omega-3 (Simopoulos, 1991). Tiêu thụ những a xít béo này giúp chống lạinhiều loại bệnh tật như bệnh tắt nghẽn động mạch, đột quỵ tim, bệnh ung thư,…(Horrocks and Yeo, 1999; Leaf et al., 1999; Simopoulos, 1999). Có nhiều nguồn cungcấp các EFA, trong đó dầu cá đã được biết đến như là nguồn cung cấp dồi dào các a xítbéo này, đặc biệt là các a xít béo omega-3 (EPA và DHA), được tin là có nhiều ích lợicho sức khỏe (Kinsella, 1987; Land, 1986).10 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 3(38).2010 Hiện tại, tồn tại nhiều sản phẩm dầu cá thương mại trên thị trường với nhiềuchủng loại, kiểu dáng và chất lượng khác nhau, từ dạng lỏng cho đến dạng viên(capsule) rất thuận lợi trong sử dụng. Tuy nhiên, nhà sản xuất thường không cung cấpđầy đủ thành phần các a xít béo trong sản phẩm. Chính vì vậy, nghiên cứu này đượcthực hiện, như một phần trong dự án lớn hơn đó là đánh giá chất lượng của các sảnphẩm dầu cá thương mại trên thị trường tại Alaska, Mỹ. Trong nghiên cứu này, thànhphần a xít béo của năm loại dầu thương mại được xác định, trong đó có ba loại dầu cónguồn gốc từ hải sản và được làm giàu ở những mức độ khác nhau (COD, UOD3 vàDHAC), hai mẫu dầu còn lại có ngồn gốc từ thực vật là dầu olive và dầu dừa cũng đượcphân tích và so sánh với dầu có nguồn gốc từ hải sản.2. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu2.1. Chuẩn bị nguyên liệu Năm mẫu dầu thương mại được sử dụng trong nghiên cứu này được mua từ cáccông ty sản xuất dầu ở Mỹ, tiêu thụ tại Alaska. Dầu gan cá tuyết [cod liver oil (COD)];dầu Utimate Omega-D3 PFO (UOD3), có nguồn gốc từ cá hồi và có bổ sung thêmvitamin D3; viên dầu cá DHA [DHA capsule (DHAC)], dầu cá có nguồn gốc từ cá hồi.Ba mẫu dầu trên được cung cấp bởi công ty Nordic Natural, USA. Dầu olive [olive oil(OLI)] và dầu dừa [Coco nut oil(COCO) được mua tại hệ thống siêu thị địa phương. Tấtcả các loại dầu trên là những loại dầu đạt tiêu chuẩn sử dụng trong thực phẩm tại Mỹ.2.2. Phân tích thành phần a xít béo Phân tích dữ liệu axít béo (Fatty Acid Profile [FAP]) được tiến hành theophương pháp của Maxwell and Marmer (1983) sử dụng axít tricosanoic (C 23:0) như làchất nội chuẩn và thành phần axít béo được xác định theo phương pháp như được mô tảbởi Bechtel and Oliveira (2006). Sử dụng sắc ký khí (model 6850, AgilentTechnologies, Wilmington, DE) được gắn với cột DB-23 (60m x 0,25 mm id, 0,25 mfilm, Agilent Technologies). Hydrogen được dùng làm khí mang với tốc độ ...

Tài liệu được xem nhiều: