Danh mục

Thành phần loài và thử nghiệm trị bệnh do ký sinh trùng gây ra trên cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) nuôi tại Khánh Hoà

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.78 MB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

375 mẫu cá chẽm (Lates calcarifer), chiều dài < 15cm, được thu từ 32 đàn cá nuôi trong khu vực Khánh Hòa đã được kiểm tra và phát hiện 14 loài ký sinh trùng, trong đó có 9 loài ngoại ký sinh và 5 loài nội ký sinh. Bệnh do trùng bánh xe (giống Trichodina) và do sán lá đơn chủ (Monogenea) thường xuyên xuất hiện và gây tác hại ở cá chẽm nuôi. Formalin với các nồng độ từ 150-250 ppm và chiết xuất từ củ tỏi với nồng độ 700-900ppm đã được sử dụng để trị hai bệnh này ở cá chẽm. Kết quả trị bệnh đã xác định rằng, formalin 250ppm hoặc chiết xuất từ tỏi 900ppm đã đạt hiệu quả cao trong trị bệnh do trùng bánh xe hoặc sán lá đơn chủ ký sinh ở cá chẽm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thành phần loài và thử nghiệm trị bệnh do ký sinh trùng gây ra trên cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) nuôi tại Khánh Hoà Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC THÀNH PHẦN LOÀI VÀ THỬ NGHIỆM TRỊ BỆNH DO KÝ SINH TRÙNG GÂY RA TRÊN CÁ CHẼM (Lates calcarifer Bloch 1790) NUÔI TẠI KHÁNH HÒA PARASITE SPECIES COMPOSITION AND THE TREATMENT TRIALS FOR PARASITIC DISEASES OF SEABASS (Lates calcarifer Bloch 1790) CULTURED IN KHANH HOA Phan Văn Út1 Ngày nhận bài: 21/6/2012; Ngày phản biện thông qua: 03/6/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013 TÓM TẮT 375 mẫu cá chẽm (Lates calcarifer), chiều dài < 15cm, được thu từ 32 đàn cá nuôi trong khu vực Khánh Hòa đã được kiểm tra và phát hiện 14 loài ký sinh trùng, trong đó có 9 loài ngoại ký sinh và 5 loài nội ký sinh. Bệnh do trùng bánh xe (giống Trichodina) và do sán lá đơn chủ (Monogenea) thường xuyên xuất hiện và gây tác hại ở cá chẽm nuôi. Formalin với các nồng độ từ 150-250 ppm và chiết xuất từ củ tỏi với nồng độ 700-900ppm đã được sử dụng để trị hai bệnh này ở cá chẽm. Kết quả trị bệnh đã xác định rằng, formalin 250ppm hoặc chiết xuất từ tỏi 900ppm đã đạt hiệu quả cao trong trị bệnh do trùng bánh xe hoặc sán lá đơn chủ ký sinh ở cá chẽm. Từ khóa: cá chẽm, ký sinh trùng, trùng bánh xe, sán lá đơn chủ, Formalin ABSTRACT Three hundred seventy five seabass (Lates calcarifer), < 15cm in length, sampled from 32 fish farms in Khanh Hoa province were used to examine the infestation of parasites. The result revealed the presence of 14 species, including 9 ecto- and 5 endo-parasites. Trichodinosis and Monogeneasis were found frequently, causing serious impacts on the fishes. Trials for the control of two diseases were conducted by using formalin at 150-250 ppm and garlic extract at 700-900ppm. Treatments used formalin at 250ppm and garlic extract at 900ppm showed highly effective against diseases caused by Trichodina and Monogenean on the fish. Keywords: Seabass, parasite, trichodinidae, monogenean, Formalin I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cá chẽm (Lates calcarifer) là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, tốc độ tăng trưởng nhanh, được nuôi chủ yếu ở một số nước thuộc khu vực châu Á Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đi đôi với sự phát triển nghề nuôi cá chẽm là nguy cơ bùng phát dịch bệnh, đã có rất nhiều báo cáo trên thế giới về ký sinh trùng gây bệnh trên đối tượng này. Leong Tak Seng và Wong See Young đã có một thời gian dài nghiên cứu ký sinh trùng trên cá chẽm tại nhiều nước Đông Nam Á. Năm 1986, đã kiểm tra 149 con cá chẽm tại Thái Lan và 43 con tại Malaysia, tìm thấy 17 loài ký sinh trùng. Năm 1990, đã kiểm tra 642 con cá chẽm từ Thái Lan và Malaysia, xác định 16 loài ký sinh trùng, trong đó cá ở Thái Lan 1 bị cảm nhiễm nặng bởi Trichodina sp., Cryptocaryon irritans, Pseudorhabdosynochus latesi và Diplectanum sp. Năm 1992, Leong và Wong kiểm tra 141 con cá chẽm tại Malaysia đã phát hiện được 6 loài ký sinh trùng thuộc 4 lớp gồm: 2-Monogenea, 2-Trematoda, 1-Nematoda và 1-Acanthocephala. Năm 1994 Leong Tak Seng đã chỉ ra rằng có nhất 4 loài sán lá đơn chủ ký sinh trên da cá Lates calcarifer gồm Pseudorhabdosynochus latesi; P. monosquamodiscus và 2 loài thuộc giống Diplectanium. Năm 2008, Rückert và ctv đã nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng trên cá chẽm tại La pung (Indonesia), kết quả xác định 19 loài ký sinh trùng, bao gồm: 1-Protozoa, 1-Myxozoan, 3-Digenea, 5-Monogenea, 3-Cestoda, 5-Nematoda và 1-Acanthocephala. ThS. Phan Văn Út: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Do vậy nghiên cứu về ký sinh trùng và bệnh do chúng gây ra sẽ là cơ sở khoa học cho các biện pháp phòng và trị bệnh trong thực tiễn sản xuất. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 375 mẫu thuộc 32 đàn cá chẽm từ các ao, lồng nuôi tại Khánh Hòa đã được thu và kiểm tra, chiều dài trung bình của cá là 7-12cm. Cá được vận chuyển hở từ vùng nuôi về phòng thí nghiệm có sục khí. Phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng trên cá của Dogiel 1929 và được mô tả lại bởi Hà Ký (1993) đã được sử dụng trong nghiên cứu này với các bước chính: Các cơ quan bên ngoài và bên trong của cá đều được kiểm tra và phát hiện ký sinh trùng bằng kính lúp tay và kính hiển vi; Ký sinh trùng được thu và cố định, đồng thời xác định mức độ cảm nhiễm trên cá; Phương pháp làm các tiêu bản lưu giữ và xác định kích thước ký sinh trùng theo Margolis et al (1982); Ký sinh trùng được định danh dựa vào các tài liệu Kabata (1992); Lom và Dykova (1992); Williams và Jones (1994) và nhiều tài liệu khác. Trong quá trình nghiên cứu, một số bệnh do ký sinh trùng gây ra ở cá chẽm nuôi đã được phát hiện, các bệnh này đã gây tác hại đáng kể cho người nuôi cá chẽm ở Khánh Hòa, đặc biệt là giai đoạn cá nhỏ. Do vậy, một số thí nghiệm trị bệnh bằng hóa chất hoặc dịch chiết rút từ tỏi đã được thực hiện. Thí nghiệm được thực hiện trong các xô nhựa 60 lít, cá thí nghiệm được bắt từ ao hoặc lồng đang có hiện tượng chết và bị nhiễm ký sinh trùng ngoại ký sinh như sán lá đơn chủ (Monogenea) hoặc trùng bánh xe (Trichodinidae) với mức độ cảm nhiễm cao (tỷ lệ nhiễm 100%; cường độ nhiễm 18.8 trùng/cá đối với sán lá đơn chủ ở da và 47.5 trùng/TTK 10X đối với trùng bánh xe), Số 4/2013 15 con cá/1 xô. Formalin ở các nồng độ 150ppm, 200ppm, 250ppm và dịch chiết rút từ củ tỏi trong cồn etylic (tỷ lệ là 100g tỏi tươi trong 100ml cồn etylic, sau đó làm bay hơi hoàn toàn cồn) với nồng độ 700ppm, 800ppm, 900ppm (chỉ dùng sau khi dung môi đã bay hết) đã được dùng để trị hai bệnh nêu trên. Mỗi thí nghiệm có 1 nghiệm thức đối chứng, trong đó cá bệnh không được chữa trị bằng formalin hoặc dịch chiết rút từ tỏi. Tất cả các loại hóa dược đều được xác định liều gây chết 50% (LC50) theo công thức của Reed và Muench (1983). Cá đã được xác định cường độ nhiễm ký sinh trùng trước mỗi thí nghiệm (tỷ lệ nhiễm 100%), tắm 1 lần duy nhất trong 30 phút với formalin hoặc dịch chiết xuất từ tỏi, sau đó tiếp tục nuôi trong xô nhựa 24h để theo dõi, xác đị ...

Tài liệu được xem nhiều: