Thấy nhàn luống tưởng thư phongTrong "Chinh phụ ngâm", bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm, đoạn diễn tả tình cảm của người chinh phụ trông tin chồng, có câu: Trải mấy thu, tin đi, tin lại, Tới xuân này, tin hãy vắng không. Thấy nhàn, luống tưởng thư phong, Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. "Thấy nhàn" là thấy chim nhạn. Theo nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn là: "Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch". "Thấy nhàn" có nghĩa là thư tín, do điển Tô Võ. Tô Võ tự Tử Khanh, quê ở...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thấy nhàn luống tưởng thư phong Thấy nhàn luống tưởng thư phongTrong Chinh phụ ngâm, bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm, đoạn diễn tả tình cảmcủa người chinh phụ trông tin chồng, có câu:Trải mấy thu, tin đi, tin lại,Tới xuân này, tin hãy vắng không.Thấy nhàn, luống tưởng thư phong,Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.Thấy nhàn là thấy chim nhạn. Theo nguyên tác bằng Hán văn của Đặng TrầnCôn là: Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch. Thấy nhàn có nghĩa là thư tín, dođiển Tô Võ.Tô Võ tự Tử Khanh, quê ở Mậu Lăng, huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây, ngườiđời Tây Hán (206 trước-196 sau D.L.) làm quan triều vua Nguyên Đế (48-33 trướcD.L.). Lúc bấy giờ, giặc Hung Nô xâm lấn Trung Nguyên. Nhà Hán thất bại, vuaHán phải sai Tô Võ làm sứ sang Hung Nô xin giảng hòa. Chúa Hung Nô thấy TôVõ ứng đối cứng cỏi, lưu loát tỏ ra người có ý chí tài ba lỗi lạc nên ý muốn thudùng, tìm lời dụ hàng. Không kết quả, nhưng chúa Hung Nô không chán nản,truyền cho Vệ Luật, nguyên là người Hán đầu hàng, lấy tình đồng bang mà dùnglời ngon ngọt khuyên nhủ Tô Võ. Vệ đến nói với Tô Võ:- Tô quân nếu không nghe lời tất bị giết. Chịu chết như thế phỏng có ích gì. Chibằng đầu hàng đi, tài hèn như tôi còn được trọng dụng, nếu là bực đại tài như Tôquân tất được phong vương bái tướng, sự đại phú quý hẳn cầm chắc trong tay.Tô Võ đứng phắt dậy, chỉ mặt Vệ Luật mắng nhiếc:- Ta không ngờ mày lại vô lương tâm đến thế. Đã muối mặt thờ kẻ thù để cầu vinh,tưởng không còn dám trông ta, ai ngờ mày lại mặt dày mày dạn quá, đến đâykhuyên ta đầu hàng. Mày bước ngay đi, chớ nhận ta là người cùng nòi cùng nướcnữa. Vì nòi giống Trung Quốc không bao giờ lại có hạng vô sỉ như mày.Bị sỉ nhục thậm tệ, Vệ Luật đỏ mặt trở về, phục mạng chúa Hung Nô rằng Tôquyết một chết, không chịu đầu hàng và xin đem giết đi. Chúa Hung Nô thâm độc,mỉm cười nói:- Nó muốn chết thì có khó gì, nhưng khi nào ta cho nó chết ngay đâu. Ta còn phảilàm cho nó chịu đủ điều khổ nhục để xem cái gan nó to bằng nào.Rồi chúa Hung Nô sai giam Tô vào một cái hầm đất tối tăm, hằng ngày chẳng choăn uống gì cả.Thương hại cho Tô Võ, bị giam trong hầm chăn chiếu không có, ngày đêm lại cómưa tuyết, đã đói lại rét, chẳng biết kiếm gì ăn cho no lòng, đành phải lượm nhữngcục tuyết và nhặt những lông áo chiên tạm nhai cho đỡ đói. Đến năm hôm, chúaHung Nô lại sai người đến dò xem thì thấy Tô vẫn ngồi chẩm hẩm, vẻ mặt nhưthường.Lấy làm lạ, chúa Hung Nô hạ lịnh đem Tô Võ lên Bắc Hải là một miền hoang vu,quanh năm giá rét, giao cho một đàn dê đựa, bắt phải chăn nuôi; và ra lịnh nếu baogiờ đàn dê ấy đẻ con thì mới cho về nước.Biết rõ sự tàn bạo đê hèn của chúa Hung Nô, Tô Võ chỉ mỉm cười.Nhờ sự luyện tập chịu đựng khổ cực, có lúc đun mình bên lửa nóng, có lúc lạimình trần tắm tuyết, gội mưa ngày còn nhỏ nên Tô Võ xem thường cảnh đọa đày,vất vả. Ở Bắc Hải, ban ngày Tô đuổi đàn dê ra một bãi cỏ cho tự do đi lại kiếm ăn;còn mình thì tìm bắt những chuột đồng và bứt cỏ ăn tạm qua ngày. Tối đến lại dồnđàn dê về trong hầm nằm nghỉ. Ở đây, ngoài đàn dề làm bầu bạn, Tô Võ còn mộtlá cờ tiết mao của vua giao cho khi đi sứ là biểu hiện của một sứ mạng trọng đại,Tô cầm luôn trong tay, không lúc nào rời. Tháng lụn ngày qua, trải năm này sangnăm khác, những lông trên thân lá cờ dần dần trút rụng hết, chỉ còn trơ lại cánkhông.Ở sa mạc Bắc Hải lâu năm, một hôm Tô Võ nghĩ được một kế viết thư về Hán báotin. Tô viết nhiều bức thư vào mảnh lụa áo, rồi buộc vào chân chim nhạn mà Tôbắt được, thả cho chim nhạn bay đi.Về mùa đông, chim nhạn ở Bắc Hải đổ về Trung Nguyên, bay vào vườn ThượngLâm của nhà vua làm ổ. Vua Hán bắt được, mở thư ra xem mới biết Tô Võ cònsống ở một chỗ cực kỳ khổ cực, lấy làm mủi lòng, thương xót vô cùng. Mãi đến 19năm, bấy giờ Hung Nô yếu thế, thất bại, xin hòa. Chúa Hung Nô nói dối là Tô Võđã bị bịnh chết từ lâu, nhưng vua Hán đưa thủ thư của Tô Võ, bấy giờ chúa HungNô không dám giam cầm nữa, đành sai một đạo quân hộ tống đến biên cảnh, chovề nước.Trong truyện Song phụng kỳ duyên lúc Chiêu Quân cống Hồ đến Nhạn MônQuan, nàng cũng xé vạt áo lụa, cắn móng tay viết thư buộc vào chân chim nhạn đểgởi về vua Hán.Bởi điển này, sau dùng tin nhạn, tin hồng, đều chỉ tin tức. Dùng chữ tái bạchlà lụa ngoài ải, tức áo lụa của Tô Võ xé để viết thư.Để nhắc lại gương oanh liệt, khẳng khái và khí tiết của Tô Võ, đồ sứ của Tàuthường vẽ hình một người tay cầm cờ tiết mao, chăn bầy dê giữa một chốn hoangvu cực kỳ buồn thảm, có đề 4 chữ Tô Võ mục dương (Tô Võ chăn dê).Truyện Tàu chép: khi Tô Võ sống ở Bắc Hải có kết duyên chồng vợ với một convượn người. Con vượn này rất yêu quý Tô Võ, hằng ngày đi tìm thực phẩm vềnuôi Tô Võ. Khi được chúa Hung Nô cho về nước, Tô Võ ra đi nhưng lòng cònchua xót thương cảm mối tình xưa.Bà Ngô Chi Lan, người đời Lê Thánh Tông (1460-1497), có tài văn chương, làmbài thơ nhan đề Tô Võ từ Hồ phụ:Ngập ngừng bưng chén ly bôi,Nghĩ mìn ...