Danh mục

Thể thao võ thuật - Võ thuật Việt Nam

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 175.88 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn, gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay, có những đặc trưng riêng biệt trong sự đối sánh với các võ phái nước ngoài khác.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thể thao võ thuật - Võ thuật Việt Nam Thể thao võ thuật - Võ thuật Việt NamVõ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sưkhai sinh và phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn, gâydựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay, có những đặc trưng riêng biệt trong sự đốisánh với các võ phái nước ngoài khác. Võ thuật Việt Nam có nội hàm khái niệm rộng hơnthuật ngữ võ cổ truyền Việt Nam (thường biết đến với tên gọi võ Ta phân biệt với võTàu) vốn thường dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa thế kỷ 20trở về trước trên lãnh thổ Việt Nam, theo đó, võ thuật Việt Nam có thể bao gồm cả nhữngmôn phái mới sinh thành trong thời điểm hiện tại, và bao quát cả những võ phái đã pháttriển trong suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam.Lịch sửKể từ bình minh của lịch sử, dân tộc Việt đã luôn phải chinh phục thiên nhiên hoang dãđể mở cõi và đấu tranh chống ngoại xâm, nhất là những đạo quân từ phương Bắc trànxuống. Những vũ khí bằng đồng của tổ tiên được tìm thấy, có niên đại từ thiên niên kỷđầu tiên trước công nguyên, như dao găm, giáo, rìu, gươm là những vũ khí đánh gần.Việc sử dụng chúng đòi hỏi phải có sự can đảm, khéo léo kỹ thuật thành thạo. Chínhnhững yếu tố đó lại rất cần thiết để phát triển các hình thức chiến dấu nhằm tạo thuận lợivà nâng cao hiệu quả của vũ khí. Tuy nhiên, các sử gia đã không thể tìm thấy bất cứ bằngchứng nào minh chứng cho sự tồn tại của những kỹ pháp võ thuật, hiểu theo nghĩa hiệnđại, trong nền văn hóa buổi đầu của lịch sử dân tộc.Những sự kiện lịch sử trong suốt hai thiên niên kỷ tiếp theo đã thúc đẩy dần sự hìnhthành không chỉ binh pháp mà cả những kỹ thuật sử dụng binh khí: đại phá quân NamHán trên Bạch Đằng giang năm 938, phá Tống năm 981 và 1077, chống Nguyên Môngnăm 1258, 1285 và 1288, khởi nghĩa chống đô hộ của nhà Minh những năm 1418 đến1428, chiến thắng nhà Thanh năm 1789.Trong suốt hai thời kỳ nhà Lý và nhà Trần từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14, Phật giáo trở thànhquốc giáo. Những phương thức nghiêm ngặt nhằm tự kiểm soát, hoàn thiện mình và rènluyện những bí kíp về thần, khí, ý, lực đã giúp các nhà sư không chỉ am tường tôn giáomà còn rất giỏi võ. Thời Lý, các nhà sư thường tổ chức lễ hội ở chùa chiền và đền miếu,nơi có những hoạt động mang đậm tinh thần thượng võ như đấu vật và tỉ thí võ nghệ taykhông hoặc có binh khí.Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, võ Việt Nam tồn tại ở hai dạng: bình dân (tại các lễ hội) vàtriều đình (chương trình chuyên rèn luyện và thi võ). Các hoạt động võ thuật bình dânđược tổ chức rộng rãi trong dân chúng, thường tại các lò võ và các lễ hội truyền thống, đểgiải trí, gia tăng tinh thần thượng võ, nâng cao kỷ luật và tự vệ. Nổi tiếng trong các lễ hộinày là các hình thức võ vật, đặc biệt là vật Liễu Đôi ở Nam Định. Những đô vật tài giỏiđược dân gian phong là trạng Vật. Nhiều người trong số họ sau này trở thành nhữnglãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa nông dân, như Phùng Hưng, Nguyễn Hữu Cầu, NguyễnCừ, Lê Lợi, Tây Sơn tam kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) và các đô đốc tàiba của họ v.v.Trong khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra donhững bậc công thần treo ấn từ quan để thể hiện sự phản đối của mình với chính sách củatriều Nguyễn. Suốt thời kỳ này võ thuật phổ biến rộng rãi. Thậm chí khi phong tràochống Pháp suy yếu thì các lò võ vẫn âm thầm hoạt động và các võ sư vẫn bí mật truyềnthụ võ thuật cho học trò, tạo nên những chương trình luyện tập võ nghệ của quần chúngtồn tại song song với võ kinh của triều đình. Tuy nhiên, đương đầu với những hỏa khí(súng, đại bác) hiện đại từ Tây phương, bạch khí (gươm, giáo, mác) tỏ rõ sự hạn chế.Trong quân sự, võ thuật đột nhiên không còn đóng vai trò quyết định trong các cuộcchiến. Dưới thời thuộc Pháp, triều đình ngừng việc đào tạo võ nghệ và trong dân chúng,các môn thể dục thể thao phương Tây dần ngự trị. Tuy nhiên, rèn luyện võ thuật nhằmphát dương quang đại tinh thần thượng võ, kỹ thuật tự vệ, vẫn âm thầm nở rộ trong dânchúng, hình thành các trung tâm võ thuật với nhiều lò võ lừng danh ở Thăng Long - HàNội (miền Bắc), Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định (miền Trung), Sài Gòn và các tỉnhđồng bằng sông Cửu Long (miền Nam).Cũng từ cuối thế kỷ 19 đến hết thế kỷ 20, nhiều trường phái võ thuật khác nhau đến từcác nước châu Á khác du nhập dần vào Việt Nam như Judo, Aikido, Karate (Nhật Bản),Wushu, Thiếu Lâm phái, Võ Đang phái, Nga Mi phái, Thái Cực quyền (Trung Quốc);Pencak silat (Malaysia), Taekwondo (Triều Tiên), quyền Anh (châu Âu) v.v. Người Việtđã tiếp nhận, chuyển hóa, kết hợp với võ thuật bản địa, làm phong phú thêm kỹ thuật tựvệ của võ học dân tộc. Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam được thành lập năm 1991với tinh thần gìn giữ và phát huy tinh hoa võ thuật của tổ tiên, giới thiệu quảng đại đến bèbạn năm châu một phần vốn liếng di sản văn hóa được tích lũy qua nhiều thế hệ ngườiViệt. Liên đoàn cũng đang hướ ...

Tài liệu được xem nhiều: