Thú chơi bài chòi
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 277.37 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài chòi là một trò chơi truyền thống rất quen thuộc và phổ biến trong những ngày đầu xuân ở các tỉnh miền Trung Trung bộ, từ Thừa Thiên Huế đến Bình Định. Người ta chọn khu đất cao ráo, mát mẻ và bằng phẳng, thường là sân đình, sân miếu để dựng hai dãy chòi lá đối diện nhau. Mỗi dãy có bốn chòi. Mái lợp lá, trụ cột bằng thân tre dài, vuông vức, mỗi cạnh chừng vài mét. Sạp lót ván hay lót khịa đan bằng cật tre già có trải chiếu, cách mặt đất chừng vài...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thú chơi bài chòi Thú chơi bài chòiBài chòi là một trò chơi truyền thống rất quen thuộc và phổ biến trongnhững ngày đầu xuân ở các tỉnh miền Trung Trung bộ, từ Thừa Thiên -Huế đến Bình Định.Người ta chọn khu đất cao ráo, mát mẻ và bằng phẳng,thường là sân đình, sân miếu để dựng hai dãy chòi lá đốidiện nhau. Mỗi dãy có bốn chòi. Mái lợp lá, trụ cột bằngthân tre dài, vuông vức, mỗi cạnh chừng vài mét. Sạp lótván hay lót khịa đan bằng cật tre già có trải chiếu, cáchmặt đất chừng vài mét. Người chơi bài chòi thường kéotheo cả gia đình hay bạn bè cùng ngồi cho vui. Riêngmột chòi ở giữa có vẻ cao ráo và bề thế gọi là chòi cái.Tất cả chín chòi liền nhau theo hình chữ U. Giữa hai dãychòi là lối đi rộng khoảng năm sáu mét. Đối diện với chòi Một tiết mục bài chòicái là nơi làm việc của ban trị sự, có kê bộ phản ngựa, cổ do các nghệ sĩtrải chiếu hoa, trên để sổ sách, trà nước, khay đựng vật nghiệp dư biểu diễndụng mang đến thưởng cho những người trúng bài. Kếbên là ban nhạc giúp vui hoặc đánh nhịp cho chú hiệu khi hô bài. Ngoài ra còncó trống chầu, trống cơm và phèng la...Người chơi bài chòi phải mua chòi. Có tất cả 9 chòi chia làm 9 phần tiền, nhưngkhi phát thưởng chỉ phát có tám phần, còn một phần giữ lại để ban trị sự chidụng gọi là tiền xâu.Bài chòi dùng bài tam cúc, có tất cả 30 cặp bài. Người ta dùng 9 chòi mỗi chòi có3 lá (9x3=27), vậy có thể tùy nghi bớt ra 3 cặp. Tên bài có thể là tên gọi nửaHán nửa Việt, như thuộc pho sách có: Nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ tượng, sáutiền, bảy thưa, tám dây, cửu điền, năm dây; thuộc pho vạn có: Nhất trò, nhì bí,tam quăng, ngũ trợt, lục chạng, bảy dây, bát bồng, cửu chùa, tứ giống; thuộcpho văn có: Chín gối, nhì bánh, ba bụng, tứ cẳng, ngũ rún, sáu miệng, tám tiền,đổ ruột, bảy liều. Và còn ba tên nữa là: Thế tử, bạch huê và ông ầm. Mỗi quânbài được viết trên mỗi thẻ tre có bề rộng bằng hai ngón tay và bề dài chừng vàitấc. Bộ bài có 27 cặp, chia làm 2, một nửa số bài cho vào chiếc ống tre tra vàotrụ gỗ chôn ở giữa sân khấu cao vừa tầm người, và một nửa thì đem chia đềucho 9 chòi, mỗi chòi 3 thẻ. Chú hiệu thường là một thanh niên có giọng tốt,nhanh nhẹn, biết hô các làn điệu dân ca như vè, hò, hát bội và có tài giễu cợt đểgiúp vui. Mỗi chòi có phát một chiếc mõ tre, riêng chòi cái thì phát chiếc trốngcơm. Khi đã đủ người chơi, kèn trống bắt đầu nổi lên ầm ĩ. Chủ hiệu bưng khayđựng quân bài lần lượt đến từng chòi cho khách bốc đủ 3 thẻ. Xong, anh hôhiệu: Hai bên chòi lẳng lặng mà nghe, róc rách ống tre, con gì lại ra... rồixướng lên một quân bài ngay, hoặc ca lên một bài có liên hệ rồi hô tên sau.Chẳng hạn chú rút thẻ bài nhất trò, thì hô:Đi đâu mang sách đi hoàiCử nhân chẳng đậu tú tài cũng khôngBớ ... bớ... Nhất trò!Một khi có chòi nào trúng con bài nhất trò thì gõ lên 3 tiếng mõ cốc, cốc, cốchay 3 tiếng trống cơm tum, tum, tum. Chú hiệu liền chạy đến trao cho chòi thẻbài ấy. Đoạn chú hiệu đưa tay lắc lắc chiếc ống, rút thẻ bài rồi hô tiếp:Vai mang túi bạc kè kè,Nói quấy, nói quá người nghe rầm rầmBớ... bớ... Ông ẦmHoặcSông sâu anh bắc cầu khumEm đi cho khéo kẻo ngã ùm xuống sôngBớ... Ông ẦmChòi nào có con bài Ông Ầm thì gõ mõ, gõ trống để báo hiệu. Nhiều câu nghephải tức cười, như:Chồng nằm chính giữaHai vợ hai bênLấy chiếu đắp lênCũng là ba bụng(Ba bụng)Hay:Tiếc công bỏ cú nuôi cuCu ăn cu lớn cu gù cu bayCu say mũ cả áo dàiCu chê nhà dột phụ hoài duyên em!(Chín cu)Khi chòi nào trúng đủ 3 con bài trong thẻ là bài đã tới, chòi đó phải hồi trốnghay hồi mõ. Chú hiệu chạy đi các chòi thu hồi thẻ bài, sau đó bưng đến chòitrúng thưởng chiếc khay đựng tiền và lá cờ đuôi nheo màu xanh xanh, đỏ đỏ. Đểchơi ván khác, chú hiệu tiếp tục phát thẻ cho các chòi. Cứ thế mà cuộc chơi luônluôn hào hứng, sôi nổi cho đến ván thứ chín mới mãn. Sau chín ván, chòi nàocắm nhiều lá cờ đuôi nheo trên nóc chòi thì chòi đó lấy làm hãnh diện lắm!Chơi bài chòi là trò chơi tao giải trí tao nhã, vui vẻ và hào hứng trong ngày tết.Đó là những điểm vui xuân thu hút đủ mọi lớp tuổi. Từ lối chơi bài chòi trên đây,dần dà phát triển thành lối hô bài chòi hay hát bài chòi, một thể loại dân ca rấtphổ biến ở miền Trung Trung bộ 5/9/ 2004 . Theo Thế giới trong taBài chòi được khôi phục tại Hội AnKIM EMTTO - Đã thành lệ, cứ đến tối thứ bảy hàng tuần, đông đảo người dân đủ mọilứa tuổi từ Đà Nẵng, Điện Bàn, Duy Xuyên đến Cù lao Chàm...lại vượt hàngchục cây số về tập trung bên bùng binh An Hội ở đầu đường Nguyễn Thái Học(khu phố cổ Hội An) để chơi bài chòi. Hò Bài ChòiMới hơn ba giờ chiều thứ bảy, cụ bà Bùi Thị Mại - 75 tuổi (trú tại phường An HảiTây , TP Đà Nẵng) lại g ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thú chơi bài chòi Thú chơi bài chòiBài chòi là một trò chơi truyền thống rất quen thuộc và phổ biến trongnhững ngày đầu xuân ở các tỉnh miền Trung Trung bộ, từ Thừa Thiên -Huế đến Bình Định.Người ta chọn khu đất cao ráo, mát mẻ và bằng phẳng,thường là sân đình, sân miếu để dựng hai dãy chòi lá đốidiện nhau. Mỗi dãy có bốn chòi. Mái lợp lá, trụ cột bằngthân tre dài, vuông vức, mỗi cạnh chừng vài mét. Sạp lótván hay lót khịa đan bằng cật tre già có trải chiếu, cáchmặt đất chừng vài mét. Người chơi bài chòi thường kéotheo cả gia đình hay bạn bè cùng ngồi cho vui. Riêngmột chòi ở giữa có vẻ cao ráo và bề thế gọi là chòi cái.Tất cả chín chòi liền nhau theo hình chữ U. Giữa hai dãychòi là lối đi rộng khoảng năm sáu mét. Đối diện với chòi Một tiết mục bài chòicái là nơi làm việc của ban trị sự, có kê bộ phản ngựa, cổ do các nghệ sĩtrải chiếu hoa, trên để sổ sách, trà nước, khay đựng vật nghiệp dư biểu diễndụng mang đến thưởng cho những người trúng bài. Kếbên là ban nhạc giúp vui hoặc đánh nhịp cho chú hiệu khi hô bài. Ngoài ra còncó trống chầu, trống cơm và phèng la...Người chơi bài chòi phải mua chòi. Có tất cả 9 chòi chia làm 9 phần tiền, nhưngkhi phát thưởng chỉ phát có tám phần, còn một phần giữ lại để ban trị sự chidụng gọi là tiền xâu.Bài chòi dùng bài tam cúc, có tất cả 30 cặp bài. Người ta dùng 9 chòi mỗi chòi có3 lá (9x3=27), vậy có thể tùy nghi bớt ra 3 cặp. Tên bài có thể là tên gọi nửaHán nửa Việt, như thuộc pho sách có: Nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ tượng, sáutiền, bảy thưa, tám dây, cửu điền, năm dây; thuộc pho vạn có: Nhất trò, nhì bí,tam quăng, ngũ trợt, lục chạng, bảy dây, bát bồng, cửu chùa, tứ giống; thuộcpho văn có: Chín gối, nhì bánh, ba bụng, tứ cẳng, ngũ rún, sáu miệng, tám tiền,đổ ruột, bảy liều. Và còn ba tên nữa là: Thế tử, bạch huê và ông ầm. Mỗi quânbài được viết trên mỗi thẻ tre có bề rộng bằng hai ngón tay và bề dài chừng vàitấc. Bộ bài có 27 cặp, chia làm 2, một nửa số bài cho vào chiếc ống tre tra vàotrụ gỗ chôn ở giữa sân khấu cao vừa tầm người, và một nửa thì đem chia đềucho 9 chòi, mỗi chòi 3 thẻ. Chú hiệu thường là một thanh niên có giọng tốt,nhanh nhẹn, biết hô các làn điệu dân ca như vè, hò, hát bội và có tài giễu cợt đểgiúp vui. Mỗi chòi có phát một chiếc mõ tre, riêng chòi cái thì phát chiếc trốngcơm. Khi đã đủ người chơi, kèn trống bắt đầu nổi lên ầm ĩ. Chủ hiệu bưng khayđựng quân bài lần lượt đến từng chòi cho khách bốc đủ 3 thẻ. Xong, anh hôhiệu: Hai bên chòi lẳng lặng mà nghe, róc rách ống tre, con gì lại ra... rồixướng lên một quân bài ngay, hoặc ca lên một bài có liên hệ rồi hô tên sau.Chẳng hạn chú rút thẻ bài nhất trò, thì hô:Đi đâu mang sách đi hoàiCử nhân chẳng đậu tú tài cũng khôngBớ ... bớ... Nhất trò!Một khi có chòi nào trúng con bài nhất trò thì gõ lên 3 tiếng mõ cốc, cốc, cốchay 3 tiếng trống cơm tum, tum, tum. Chú hiệu liền chạy đến trao cho chòi thẻbài ấy. Đoạn chú hiệu đưa tay lắc lắc chiếc ống, rút thẻ bài rồi hô tiếp:Vai mang túi bạc kè kè,Nói quấy, nói quá người nghe rầm rầmBớ... bớ... Ông ẦmHoặcSông sâu anh bắc cầu khumEm đi cho khéo kẻo ngã ùm xuống sôngBớ... Ông ẦmChòi nào có con bài Ông Ầm thì gõ mõ, gõ trống để báo hiệu. Nhiều câu nghephải tức cười, như:Chồng nằm chính giữaHai vợ hai bênLấy chiếu đắp lênCũng là ba bụng(Ba bụng)Hay:Tiếc công bỏ cú nuôi cuCu ăn cu lớn cu gù cu bayCu say mũ cả áo dàiCu chê nhà dột phụ hoài duyên em!(Chín cu)Khi chòi nào trúng đủ 3 con bài trong thẻ là bài đã tới, chòi đó phải hồi trốnghay hồi mõ. Chú hiệu chạy đi các chòi thu hồi thẻ bài, sau đó bưng đến chòitrúng thưởng chiếc khay đựng tiền và lá cờ đuôi nheo màu xanh xanh, đỏ đỏ. Đểchơi ván khác, chú hiệu tiếp tục phát thẻ cho các chòi. Cứ thế mà cuộc chơi luônluôn hào hứng, sôi nổi cho đến ván thứ chín mới mãn. Sau chín ván, chòi nàocắm nhiều lá cờ đuôi nheo trên nóc chòi thì chòi đó lấy làm hãnh diện lắm!Chơi bài chòi là trò chơi tao giải trí tao nhã, vui vẻ và hào hứng trong ngày tết.Đó là những điểm vui xuân thu hút đủ mọi lớp tuổi. Từ lối chơi bài chòi trên đây,dần dà phát triển thành lối hô bài chòi hay hát bài chòi, một thể loại dân ca rấtphổ biến ở miền Trung Trung bộ 5/9/ 2004 . Theo Thế giới trong taBài chòi được khôi phục tại Hội AnKIM EMTTO - Đã thành lệ, cứ đến tối thứ bảy hàng tuần, đông đảo người dân đủ mọilứa tuổi từ Đà Nẵng, Điện Bàn, Duy Xuyên đến Cù lao Chàm...lại vượt hàngchục cây số về tập trung bên bùng binh An Hội ở đầu đường Nguyễn Thái Học(khu phố cổ Hội An) để chơi bài chòi. Hò Bài ChòiMới hơn ba giờ chiều thứ bảy, cụ bà Bùi Thị Mại - 75 tuổi (trú tại phường An HảiTây , TP Đà Nẵng) lại g ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 254 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 250 0 0 -
4 trang 206 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 204 0 0 -
Tiểu luận: Xã hội học chính trị - xã hội học dân sự
15 trang 122 0 0 -
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 114 0 0 -
Báo cáo Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh và những nỗ lực thâm nhập phương Đông trong thế kỷ XVII.
9 trang 103 0 0 -
4 trang 77 0 0
-
Tiểu luận: Nhóm Xã Hội Gia Đình
13 trang 65 0 0 -
Đề tài: Xây dựng dự án khả thi hệ thống quản lý thư viện ĐHQG HN
20 trang 60 0 0