![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Thuận lợi và khó khăn của việc gia nhập hiệp định TPP khi thực hiện và hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ hiện nay - dưới góc độ tiếp cận dựa trên quyền
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 514.07 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đề tài này nghiên cứu Thuận lợi và khó khăn của việc gia nhập Hiệp định TPP khi thực hiện và hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ hiện nay- Dưới góc độ tiếp cận dựa trên quyền không chỉ nhằm thực hiện tốt các cam kết của TPP mà còn xuất phát từ chính nhu cầu nội tại của Việt Nam trong công cuộc cải cách và hoàn thiện thể chế, pháp luật về lao động nữ hiện nay, đáp ứng nhu cầu phát triển chung của đất nước. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuận lợi và khó khăn của việc gia nhập hiệp định TPP khi thực hiện và hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ hiện nay - dưới góc độ tiếp cận dựa trên quyền THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆC GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH TPP KHI THỰC HIỆN VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NỮ HIỆN NAY - DƯỚI GÓC ĐỘ TIẾP CẬN DỰA TRÊN QUYỀN ADVANTAGES AND DISADVANTAGES OF JOINING THE TPP WHEN PERFORMING AND PERFECTING CURRENT LEGAL INSTITUTIONS ABOUT FEMALE LABOR – FROM RIGHTS-BASED APPROACH ThS.NCS. Trần Văn Duy Nghiên cứu viên - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Tóm tắt Hiệp định TPP vừa kết thúc quá trình đàm phán thành công. Việt Nam cần phải thực hiện đánh giá tác động của TPP với việc hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ và đề xuất những giải pháp điều chỉnh chính sách và pháp luật để đảm bảo thực thi hiệu quả Hiệp định sau khi có hiệu lực. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam khi tham gia TPP không chỉ đem lại cơ hội cho thương mại, đầu tư, thúc đẩy sản xuất trong nước, xuất khẩu hàng hóa mà còn có tác động không nhỏ đến việc thể chế pháp luật về lao động nữ, thúc đẩy cải cách thể chế pháp luật về lao động nữ cho phù hợp với nhu cầu phát triển nội tại của đất nước cũng như quá trình hội nhập, tiếp cận thị trường, tiếp cận gần hơn với trình độ phát triển của các nước trong tham gia TPP mà còn các nước trong khu vực. Do đó, việc nghiên cứu Thuận lợi và khó khăn của việc gia nhập Hiệp định TPP khi thực hiện và hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ hiện nay- Dưới góc độ tiếp cận dựa trên quyền không chỉ nhằm thực hiện tốt các cam kết của TPP mà còn xuất phát từ chính nhu cầu nội tại của Việt Nam trong công cuộc cải cách và hoàn thiện thể chế, pháp luật về lao động nữ hiện nay, đáp ứng nhu cầu phát triển chung của đất nước. Từ khóa: pháp luật về lao động nữ; gia nhập Hiệp định TPP; tiếp cận dựa trên quyền Abstract TPP has just ended successfully negotiating process. Vietnam need to evaluate the impact of the TPP with improving institutionalization female labor legislation and propose solutions to adjust policies and legislation to ensure the effective implementation of the Agreement after the entry at. International integration process of Vietnam joining the TPP will not only bring opportunities for trade and investment, promote domestic production, exports of goods but also have a significant impact on the legal institutions of female employees, promote institutional reform labor laws to suit the female internal development needs of the country as well as the integration process, access to markets, access to play closer to qualification developing countries' participation in the TPP but also other countries in the region. Therefore, the study of advantages and disadvantages of joining the TPP while performing and perfecting the labor legislation That represented the perspective of women is rights-based approach is not only to make good commitment of TPP but also stems from the 863 intrinsic needs of Vietnam in reforming and perfecting the law on female labor currently, meet the development needs of the country. Keywords: female labor law; joining the TPP; rights-based approach 1. Đặt vấn đề Khởi đầu, Hiệp định TPP có 4 nước tham gia là Bru-nây, Chi-lê, Niu Di-lân, Xinh-ga- po và vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4. Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng không phải Hiệp định P4 cũ mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Ô- xtrây-lia và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP. Ngay từ khi TPP được hình thành, Việt Nam đã được các nước TPP mời tham gia. Việt Nam đã tham gia đàm phán ngay từ những ngày đầu nhưng chưa phải thành viên chính thức mà là thành viên liên kết. Sau 3 phiên tham dự với tư cách thành viên liên kết, Việt Nam chính thức tham gia TPP từ tháng 11 năm 2010. Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới là Ma-lai-xia, Mê-xi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên thành 12 vào giữa năm 2013. Sau đó, một số nước khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Cô-lôm-bia v..v cũng bày tỏ ý muốn tham gia nhưng các nước TPP thống nhất cần tập trung cho việc kết thúc đàm phán trước khi kết nạp thêm thành viên mới. Ngày 05/11/2015 các nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã công bố toàn văn Hiệp định với 30 chương, nhiều lĩnh vực, mô hình mới về hợp tác kinh tế, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại và đầu tư. Tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động là nội dung luôn được đề cập đến trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Cũng như các FTA thế hệ mới khác, Hiệp định TPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) mà Việt Nam là một thành viên về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động mà tất cả các nước thành viên TPP đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực thi với tư cách thành viên ILO 1. Hiệp định TPP yêu cầu các nước quy định trong luật và áp dụng trên thực tế các biện pháp để bảo đảm thực thi đầy đủ Tuyên bố của ILO năm 1998 về các nguyên tắc cơ bản và quyền tại nơi làm việc. Tuyên bố này bao gồm các quyền cơ bản của người lao động, đó là các quyền tự do liên kết, quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ lao động trẻ em, phụ nữ, loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp; không phân biệt đối xử người lao động, tạo vấn đề bình đẳng giới trong quan hệ pháp luật lao động. Các tiêu chuẩn cao về các quyền cơ bản của người lao động trong đó có lao động nữ và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước bảo đảm các quyền và cơ hội tiếp cận quan hệ pháp luật lao động lành mạnh củ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuận lợi và khó khăn của việc gia nhập hiệp định TPP khi thực hiện và hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ hiện nay - dưới góc độ tiếp cận dựa trên quyền THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆC GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH TPP KHI THỰC HIỆN VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NỮ HIỆN NAY - DƯỚI GÓC ĐỘ TIẾP CẬN DỰA TRÊN QUYỀN ADVANTAGES AND DISADVANTAGES OF JOINING THE TPP WHEN PERFORMING AND PERFECTING CURRENT LEGAL INSTITUTIONS ABOUT FEMALE LABOR – FROM RIGHTS-BASED APPROACH ThS.NCS. Trần Văn Duy Nghiên cứu viên - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Tóm tắt Hiệp định TPP vừa kết thúc quá trình đàm phán thành công. Việt Nam cần phải thực hiện đánh giá tác động của TPP với việc hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ và đề xuất những giải pháp điều chỉnh chính sách và pháp luật để đảm bảo thực thi hiệu quả Hiệp định sau khi có hiệu lực. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam khi tham gia TPP không chỉ đem lại cơ hội cho thương mại, đầu tư, thúc đẩy sản xuất trong nước, xuất khẩu hàng hóa mà còn có tác động không nhỏ đến việc thể chế pháp luật về lao động nữ, thúc đẩy cải cách thể chế pháp luật về lao động nữ cho phù hợp với nhu cầu phát triển nội tại của đất nước cũng như quá trình hội nhập, tiếp cận thị trường, tiếp cận gần hơn với trình độ phát triển của các nước trong tham gia TPP mà còn các nước trong khu vực. Do đó, việc nghiên cứu Thuận lợi và khó khăn của việc gia nhập Hiệp định TPP khi thực hiện và hoàn thiện thể chế pháp luật về lao động nữ hiện nay- Dưới góc độ tiếp cận dựa trên quyền không chỉ nhằm thực hiện tốt các cam kết của TPP mà còn xuất phát từ chính nhu cầu nội tại của Việt Nam trong công cuộc cải cách và hoàn thiện thể chế, pháp luật về lao động nữ hiện nay, đáp ứng nhu cầu phát triển chung của đất nước. Từ khóa: pháp luật về lao động nữ; gia nhập Hiệp định TPP; tiếp cận dựa trên quyền Abstract TPP has just ended successfully negotiating process. Vietnam need to evaluate the impact of the TPP with improving institutionalization female labor legislation and propose solutions to adjust policies and legislation to ensure the effective implementation of the Agreement after the entry at. International integration process of Vietnam joining the TPP will not only bring opportunities for trade and investment, promote domestic production, exports of goods but also have a significant impact on the legal institutions of female employees, promote institutional reform labor laws to suit the female internal development needs of the country as well as the integration process, access to markets, access to play closer to qualification developing countries' participation in the TPP but also other countries in the region. Therefore, the study of advantages and disadvantages of joining the TPP while performing and perfecting the labor legislation That represented the perspective of women is rights-based approach is not only to make good commitment of TPP but also stems from the 863 intrinsic needs of Vietnam in reforming and perfecting the law on female labor currently, meet the development needs of the country. Keywords: female labor law; joining the TPP; rights-based approach 1. Đặt vấn đề Khởi đầu, Hiệp định TPP có 4 nước tham gia là Bru-nây, Chi-lê, Niu Di-lân, Xinh-ga- po và vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4. Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng không phải Hiệp định P4 cũ mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Ô- xtrây-lia và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP. Ngay từ khi TPP được hình thành, Việt Nam đã được các nước TPP mời tham gia. Việt Nam đã tham gia đàm phán ngay từ những ngày đầu nhưng chưa phải thành viên chính thức mà là thành viên liên kết. Sau 3 phiên tham dự với tư cách thành viên liên kết, Việt Nam chính thức tham gia TPP từ tháng 11 năm 2010. Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới là Ma-lai-xia, Mê-xi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên thành 12 vào giữa năm 2013. Sau đó, một số nước khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Cô-lôm-bia v..v cũng bày tỏ ý muốn tham gia nhưng các nước TPP thống nhất cần tập trung cho việc kết thúc đàm phán trước khi kết nạp thêm thành viên mới. Ngày 05/11/2015 các nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã công bố toàn văn Hiệp định với 30 chương, nhiều lĩnh vực, mô hình mới về hợp tác kinh tế, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại và đầu tư. Tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động là nội dung luôn được đề cập đến trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Cũng như các FTA thế hệ mới khác, Hiệp định TPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) mà Việt Nam là một thành viên về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động mà tất cả các nước thành viên TPP đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực thi với tư cách thành viên ILO 1. Hiệp định TPP yêu cầu các nước quy định trong luật và áp dụng trên thực tế các biện pháp để bảo đảm thực thi đầy đủ Tuyên bố của ILO năm 1998 về các nguyên tắc cơ bản và quyền tại nơi làm việc. Tuyên bố này bao gồm các quyền cơ bản của người lao động, đó là các quyền tự do liên kết, quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ lao động trẻ em, phụ nữ, loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp; không phân biệt đối xử người lao động, tạo vấn đề bình đẳng giới trong quan hệ pháp luật lao động. Các tiêu chuẩn cao về các quyền cơ bản của người lao động trong đó có lao động nữ và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước bảo đảm các quyền và cơ hội tiếp cận quan hệ pháp luật lao động lành mạnh củ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển kinh tế Việt Nam Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương Pháp luật về lao động nữ Đảm bảo quyền lợi của người lao động Quá trình hội nhập quốc tếTài liệu liên quan:
-
12 trang 194 0 0
-
Ứng dụng mô hình ARDL nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
9 trang 176 0 0 -
11 trang 175 0 0
-
19 trang 158 0 0
-
Hàm ý một số giải pháp phát triển doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam thời hội nhập
12 trang 96 0 0 -
Ứng dụng lý thuyết của Hofstede trong nghiên cứu văn hóa khách hàng dịch vụ viễn thông di động
12 trang 81 0 0 -
Phân cấp quản lý đầu tư công tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
14 trang 72 0 0 -
Xây dựng tập đoàn kinh tế góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế: Phần 2
78 trang 63 0 0 -
Mô hình e-logistics và giải pháp cho khu vực Tây Nguyên
7 trang 42 0 0 -
Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam
12 trang 38 0 0