Thực hành: Các kỹ thuật phân tích protein
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 291.68 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Các kỹ thuật phân tích protein 1. Chuẩn bị dịch chiết tế bào để tinh sạch proteinViệc phân lập và tinh sạch được các loại protein riêng rẽ có ý nghĩa quyết định đến khả năng tìm hiểu được chức năng của chúng. Mặc dù trong một số trường hợp, chúng ta có thể nghiên cứu chức năng của protein ở dạng hỗn hợp phức tạp, nhưng phần lớn những nghiên cứu này thường dẫn đến những kết luận “mù mờ”. Chẳng hạn như khi chúng ta nghiên cứu về hoạt tính của một enzym ADN polymerase trong một hỗn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực hành: Các kỹ thuật phân tích protein Các kỹ thuật phân tích protein1. Chuẩn bị dịch chiết tế bào để tinh sạch proteinViệc phân lập và tinh sạch được các loại protein riêng rẽ có ý nghĩa quyếtđịnh đến khả năng tìm hiểu được chức năng của chúng. Mặc dù trong một sốtrường hợp, chúng ta có thể nghiên cứu chức năng của protein ở dạng hỗnhợp phức tạp, nhưng phần lớn những nghiên cứu này thường dẫn đến nhữngkết luận “mù mờ”.Chẳng hạn như khi chúng ta nghiên cứu về hoạt tính của một enzym ADNpolymerase trong một hỗn hợp protein thô (chẳng hạn từ dịch phân giải tếbào), các enzym ADN polymerase và protein thành phần khác cũng có thểảnh hưởng đến hiệu suất tổng hợp ADN quan sát được trong thực nghiệm. Vìvậy, việc tinh sạch các protein là một bước quan trong trong quá trình tìmhiểu về chức năng của chúng.Mỗi một protein thường có một số đặc tính riêng làm việc tinh sạch chúngthường có tính đặc thù. Điều này thì trái ngược với ADN, vốn cơ bản giốngnhau về cấu trúc và thành phần, chỉ khác nhau về trình tự của các nucleotit.Các bước tinh sạch từng loại protein thường dựa trên các đặc tính đặc thù củanó về kích thước, hình dạng, điện tích và nhiều khi là chức năng của chúng.Vật liệu khởi đầu cho hầu hết các quá trình tinh sạch protein từ sinh vật là cácdịch chiết tế bào. Không giống ADN vốn có tính phục hồi cao trong các điềukiện nhiệt độ sống khác nhau, thì protein rất dễ bị biến tính và phá hủy saukhi bị giải phóng ra khỏi tế bào. Vì lý do này, hầu hết quá trình chuẩn bị cácdịch chiết và tinh sạch protein được tiến hành ở nhiệt độ lạnh (4oC). Có mộtsố cách chuẩn bị dịch chiết tế bào. Các tế bào có thể phân giải bằng sử dụngchất tẩy, các lực làm vỡ thành tế bào, xử lý với dung dịch nhược trương (làmtế bào trương lên do nước đi vào và vỡ ra), hoặc thay đổi đột ngột áp suất.Điểm chung của tất cả các phương pháp là làm thành tế bào vỡ ra và cácprotein được giải phóng. Trong một số trường hợp, các tế bào được chuyểnvề trạng thái đông lạnh trước khi được nghiền bằng những máy nghiền mẫutrong phòng thí nghiệm.2. Sử dụng sắc ký cột trong tinh chế proteinPhương pháp chiết xuất và tinh sạch protein phổ biến nhất là sắc ký cột.Trong trường hợp này, các phân đoạn protein được cho chạy qua cột nhồibằng các hạt agarose hoặc polyacrylamit nhỏ được cải biến cho phù hợp. Cómột số phương án khác nhau trong việc sử dụng cột tách chiết và tinh sạchprotein. Các quy trình khác nhau được thiết lập có thể khác nhau do đặc tínhkhác nhau của các loại protein. Ở đây mô tả ba phương pháp. Trong haiphương pháp đầu, protein được phân lập dựa vào kích thước và tính tích điệncủa chúng. Tóm tắt về các phương pháp này được nêu trên hình 14.Sắc ký trao đổi ion: Trong phương pháp này, các phân tử protein được phânlập dựa trên điện tích ion hóa bề mặt của chúng bằng việc sử dụng các vậtliệu làm cột là các hạt mang các nhóm chức tích điện âm hoặc dương (đâycòn được gọi là pha tĩnh). Các phân tử protein tương tác yếu với các hạt(chẳng hạn như một phân tử protein tích điện dương được cho chạy qua cộtmang các hạt tích điện âm) sẽ được hồi lưu khi sử dụng một dung dịch muỗiloãng chảy qua cột sau đó (dung dịch chạy mẫu được gọi là pha động). Cácphân tử tương tác với pha động càng mạnh, càng cần dung dịch hàm lượngmuối cao để hồi lưu mẫu (bởi muối làm trung hòa các vùng mang điện tíchvà vì vậy cho phép các phân tử protein được giải phóng khỏi cột. Bằng việctăng dần nồng độ muối trong các dung dịch đệm thu hồi mẫu, các phân tửprotein khác nhau, kể cả các phân tử có đặc tính tích điện gần giống nhaucũng được phân tách thành các phân đoạn khác nhau khi chúng được hồi lưutừ cột.Sắc ký lọc gel: Kỹ thuật này cho phép phân tách các loại protein trên cở sởđặc điểm khác nhau của các loại protein về hình dạngvà kích thước. Khác với trong kỹ thuật sắc ký trao đổi ion, các hạt được sửdụng để nhồi cột trong kỹ thuật này không mang các nhóm tích điện mà thayvào đó là mang các lỗ có kích thước khác nhau. Các phân tử protein càng nhỏcàng có nhiều khả năng thâm nhập vào tất cả các lỗ; vì vậy, thời gian chạyqua cột dài hơn và thời gian hồi lưu muộn hơn. Ngược lại, các phân tửprotein kích thước càng lớn càng có thời gian hồi lưu (chạy qua toàn bộ cột)sớm hơn.Đối với mỗi loại cột, các phân đoạn sắc ký được thu ở các nồng độ muối khácnhau hoặc ở các thời gian hồi lưu khác nhau để thu được từng loại proteinđược quan tâm nghiên cứu. Các phân đoạn có hoạt tính protein được quantâm cao nhất sẽ được tích lũy và tiến hành tinh sạch bổ sung.Độ tinh sạch của sản phẩm protein sẽ tăng lên khi các phân đoạn proteinđược chạy qua nhiều cột sắc ký khác nhau. Thông thường một cột sắc ký đơnlẻ không đủ để tinh sạch được một loại phân tử protein mong muốn nào đó dùquá trình sắc ký được lặp đi lặp lại nhiều lần, thay vào đó người ta thườngphải áp dụng một chuỗi các bước kỹ thuật để có thể thu được một phân đoạnchứa một lượng lớn loại protein cầ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực hành: Các kỹ thuật phân tích protein Các kỹ thuật phân tích protein1. Chuẩn bị dịch chiết tế bào để tinh sạch proteinViệc phân lập và tinh sạch được các loại protein riêng rẽ có ý nghĩa quyếtđịnh đến khả năng tìm hiểu được chức năng của chúng. Mặc dù trong một sốtrường hợp, chúng ta có thể nghiên cứu chức năng của protein ở dạng hỗnhợp phức tạp, nhưng phần lớn những nghiên cứu này thường dẫn đến nhữngkết luận “mù mờ”.Chẳng hạn như khi chúng ta nghiên cứu về hoạt tính của một enzym ADNpolymerase trong một hỗn hợp protein thô (chẳng hạn từ dịch phân giải tếbào), các enzym ADN polymerase và protein thành phần khác cũng có thểảnh hưởng đến hiệu suất tổng hợp ADN quan sát được trong thực nghiệm. Vìvậy, việc tinh sạch các protein là một bước quan trong trong quá trình tìmhiểu về chức năng của chúng.Mỗi một protein thường có một số đặc tính riêng làm việc tinh sạch chúngthường có tính đặc thù. Điều này thì trái ngược với ADN, vốn cơ bản giốngnhau về cấu trúc và thành phần, chỉ khác nhau về trình tự của các nucleotit.Các bước tinh sạch từng loại protein thường dựa trên các đặc tính đặc thù củanó về kích thước, hình dạng, điện tích và nhiều khi là chức năng của chúng.Vật liệu khởi đầu cho hầu hết các quá trình tinh sạch protein từ sinh vật là cácdịch chiết tế bào. Không giống ADN vốn có tính phục hồi cao trong các điềukiện nhiệt độ sống khác nhau, thì protein rất dễ bị biến tính và phá hủy saukhi bị giải phóng ra khỏi tế bào. Vì lý do này, hầu hết quá trình chuẩn bị cácdịch chiết và tinh sạch protein được tiến hành ở nhiệt độ lạnh (4oC). Có mộtsố cách chuẩn bị dịch chiết tế bào. Các tế bào có thể phân giải bằng sử dụngchất tẩy, các lực làm vỡ thành tế bào, xử lý với dung dịch nhược trương (làmtế bào trương lên do nước đi vào và vỡ ra), hoặc thay đổi đột ngột áp suất.Điểm chung của tất cả các phương pháp là làm thành tế bào vỡ ra và cácprotein được giải phóng. Trong một số trường hợp, các tế bào được chuyểnvề trạng thái đông lạnh trước khi được nghiền bằng những máy nghiền mẫutrong phòng thí nghiệm.2. Sử dụng sắc ký cột trong tinh chế proteinPhương pháp chiết xuất và tinh sạch protein phổ biến nhất là sắc ký cột.Trong trường hợp này, các phân đoạn protein được cho chạy qua cột nhồibằng các hạt agarose hoặc polyacrylamit nhỏ được cải biến cho phù hợp. Cómột số phương án khác nhau trong việc sử dụng cột tách chiết và tinh sạchprotein. Các quy trình khác nhau được thiết lập có thể khác nhau do đặc tínhkhác nhau của các loại protein. Ở đây mô tả ba phương pháp. Trong haiphương pháp đầu, protein được phân lập dựa vào kích thước và tính tích điệncủa chúng. Tóm tắt về các phương pháp này được nêu trên hình 14.Sắc ký trao đổi ion: Trong phương pháp này, các phân tử protein được phânlập dựa trên điện tích ion hóa bề mặt của chúng bằng việc sử dụng các vậtliệu làm cột là các hạt mang các nhóm chức tích điện âm hoặc dương (đâycòn được gọi là pha tĩnh). Các phân tử protein tương tác yếu với các hạt(chẳng hạn như một phân tử protein tích điện dương được cho chạy qua cộtmang các hạt tích điện âm) sẽ được hồi lưu khi sử dụng một dung dịch muỗiloãng chảy qua cột sau đó (dung dịch chạy mẫu được gọi là pha động). Cácphân tử tương tác với pha động càng mạnh, càng cần dung dịch hàm lượngmuối cao để hồi lưu mẫu (bởi muối làm trung hòa các vùng mang điện tíchvà vì vậy cho phép các phân tử protein được giải phóng khỏi cột. Bằng việctăng dần nồng độ muối trong các dung dịch đệm thu hồi mẫu, các phân tửprotein khác nhau, kể cả các phân tử có đặc tính tích điện gần giống nhaucũng được phân tách thành các phân đoạn khác nhau khi chúng được hồi lưutừ cột.Sắc ký lọc gel: Kỹ thuật này cho phép phân tách các loại protein trên cở sởđặc điểm khác nhau của các loại protein về hình dạngvà kích thước. Khác với trong kỹ thuật sắc ký trao đổi ion, các hạt được sửdụng để nhồi cột trong kỹ thuật này không mang các nhóm tích điện mà thayvào đó là mang các lỗ có kích thước khác nhau. Các phân tử protein càng nhỏcàng có nhiều khả năng thâm nhập vào tất cả các lỗ; vì vậy, thời gian chạyqua cột dài hơn và thời gian hồi lưu muộn hơn. Ngược lại, các phân tửprotein kích thước càng lớn càng có thời gian hồi lưu (chạy qua toàn bộ cột)sớm hơn.Đối với mỗi loại cột, các phân đoạn sắc ký được thu ở các nồng độ muối khácnhau hoặc ở các thời gian hồi lưu khác nhau để thu được từng loại proteinđược quan tâm nghiên cứu. Các phân đoạn có hoạt tính protein được quantâm cao nhất sẽ được tích lũy và tiến hành tinh sạch bổ sung.Độ tinh sạch của sản phẩm protein sẽ tăng lên khi các phân đoạn proteinđược chạy qua nhiều cột sắc ký khác nhau. Thông thường một cột sắc ký đơnlẻ không đủ để tinh sạch được một loại phân tử protein mong muốn nào đó dùquá trình sắc ký được lặp đi lặp lại nhiều lần, thay vào đó người ta thườngphải áp dụng một chuỗi các bước kỹ thuật để có thể thu được một phân đoạnchứa một lượng lớn loại protein cầ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kỹ thuật phân tích di truyền phân tử thuật ngữ di tuyền gen ung thư di truyền học chuyên đề sinh họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
4 trang 168 0 0
-
Sổ tay Thực tập di truyền y học: Phần 2
32 trang 109 0 0 -
TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ HỌC VÀ BỆNH LÝ
80 trang 86 0 0 -
Tiểu luận: LÝ THUYẾT ĐỒNG DẠNG THỨ NGUYÊN
12 trang 66 0 0 -
Đề cương ôn tập học kì 1 môn Sinh học lớp 9 năm 2022-2023 - Trường THCS Long Toàn
36 trang 65 0 0 -
những kiến thức cơ bản về công nghệ sinh học (tái bản lần thứ ba): phần 2
128 trang 48 0 0 -
Vận dụng lí thuyết kiến tạo để nâng cao chất lượng dạy học phần di truyền học (Sinh học 12)
6 trang 46 0 0 -
Chuyên đề sinh học về tinh hoàn
5 trang 44 0 0 -
Tiểu luận Công nghệ sinh học động vật
19 trang 42 0 0 -
Bài giảng Công nghệ gen và công nghệ thông tin - GS.TS Lê Đình Lương
25 trang 35 0 0