Thuốc bôi ngoài da: Bôi bên ngoài, hại bên trong?
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 115.90 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mùa hè cũng là mùa của các bệnh ngoài da. Trong điều trị các bệnh da, người ta thường sử dụng thuốc uống và thuốc bôi. Đa phần thuốc bôi chỉ có tác dụng tại chỗ. Nhưng khi diện tích da bị bệnh lớn hoặc tổn thương sâu thì thuốc có cơ hộingấm qua da và gây nên những tác dụng toàn thân không khác gì thuốc uống.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc bôi ngoài da: Bôi bên ngoài, hại bên trong?Thuốc bôi ngoàida: Bôi bênngoài, hại bêntrong?Mùa hè cũng là mùa của các bệnh ngoài da. Trong điềutrị các bệnh da, người ta thường sử dụng thuốc uống vàthuốc bôi.Đa phần thuốc bôi chỉ có tác dụng tại chỗ. Nhưng khi diệntích da bị bệnh lớn hoặc tổn thương sâu thì thuốc có cơ hộingấm qua da và gây nên những tác dụng toàn thân khôngkhác gì thuốc uống.Các dạng thuốc bôiHiện nay có nhiều dạng thuốc bôi trên thị trường như mỡbenzosali, hồ nước, mỡ acyclovir, kem nghệ, kem kẽm oxit,dung dịch sát khuẩn, dung dịch xanh-methylen... Thật khôngthể đếm hết được có bao nhiêu loại thuốc bôi được bày bán.Tuy nhiều thế nhưng nhìn chung, thuốc bôi bao gồm mộthoặc nhiều thành phần sau đây: chất béo, nước, bột vàthuốc. Tuỳ từng sự kết hợp, tuỳ từng tỷ lệ thành phần màchúng ta có những dạng thuốc bôi khác nhau. Có 5 loạithuốc bôi cơ bản đó là: dạng dung dịch, dạng bột, dạng hồ,dạng kem và dạng mỡ.Dạng dung dịch: Đây là dạng thuốc bôi mà trong đó baogồm hai thành phần là dung môi và thuốc tạo thành mộtdung dịch đồng nhất. Dung môi có thể là nước, cồn, ete,axeton, clorofor hoặc glycerin. Thuốc là thành phần chủ đạovì nó sẽ quyết định hoạt tính dược lý. Đa phần chúng là cácthuốc sát trùng như xanh metylen, axit boric, tím gentian.Dạng dung dịch chủ yếu dùng với vết thương, loét da, chảynước.Dạng bột là hỗn hợp khá đồng đều của tá dược và thuốc. Tádược thường được sử dụng là các loại bột có khả năngthấm hút nước mạnh như bột gạo, bột than, bột talc(Mg2SiO3), bột kaolin (Al2SiO3), bột bismuth. Thuốc trongcông thức của thuốc bột thường là các kháng sinh nhưclorocid. Thuốc bôi dạng này chủ yếu được dùng với các vếtthương nhiễm trùng chảy nước nhiều và liên tục.Thuốc mỡ là một dạng thuốc chủ yếu nhất trong họ hàngnhà thuốc bôi. Thành phần của nó có mỡ hoặc chất béo nênthuốc dễ ngấm vào sâu và tác dụng tốt. Chất béo thôngdụng là vaselin và lanoline. Thuốc được pha vào là các chấtdiệt khuẩn như kháng sinh, các axit hữu cơ, các chất làmbong vảy da như axit salicylic, các kháng sinh chống nấm,corticoid, vitamin... Thuốc mỡ chỉ được dùng khi vết thươngđã khô và đóng vảy.Dạng hồ là dạng thuốc bôi trong đó thành phần giống nhưthuốc mỡ, bao gồm chất béo, bột tạo hình và thuốc. Nhưngở dạng này, thành phần bột tạo hình nhiều hơn, từ 30-50%tổng hàm lượng. Vì có nhiều bột hơn nên nó được sử dụngtrong giai đoạn bán cấp, vết thương chuẩn bị se da.Kem là một dạng thuốc bôi mà thành phần của nó có đủ:mỡ, glycerin, nước và thuốc. Vì có thêm nước nên nó có vẻnhão hơn các dạng khác và cũng vì thế mà nó mát hơn. Nóthường được dùng để chế tạo mỹ phẩm. Thuốc đôi khi cũngđược bào chế dạng kem với chủ định là làm mát da.Thuốc có thể ngấm vào cơ thể gây tác động toàn thân.Những lưu ýCó một điều lưu ý, dù sử dụng dạng nào thì thuốc bôi khôngchỉ tác dụng tại chỗ bôi, nó hoàn toàn có nguy cơ gây ra tácdụng toàn thân. Và đây chính là tác hại của thuốc bôi khi sửdụng bất cẩn.Diện tích da bôi thuốc rộng, nồng độ thuốc cao, sử dụng kéodài là ba yếu tố chủ đạo gây ra những tác phụ ngoại ý ở bêntrong cơ thể. Thuốc sẽ có nhiều cơ hội đi vào máu, tích luỹtrong các cơ quan và gây ra những tác dụng không mongmuốn.Ví dụ, salicylic là một thuốc đầu bảng làm bạt sừng, bongvảy điều trị đặc hiệu những bệnh có dày sừng như vảy đầu(cứt trâu) ở trẻ dưới 1 tuổi, vảy nến, mụn trứng cá do bài tiếtquá nhiều. Tuy nhiên, nó lại có thể ngấm vào cơ thể gây ratác hại trên hệ thần kinh. Hai biến chứng khó chịu nhất làchóng mặt, nhức đầu do salicylic, đặc biệt khi sử dụng quánhiều ở những đối tượng sẵn có những biểu hiện này.Nhiều trường hợp ngộ độc salicylic quá gây ra hội chứngsalicylic. Đây là một hội chứng toàn thân mà do cơ thể hấpthu quá nhiều salicylic gây ra. Các dấu hiệu của hội chứngnày bao gồm: da xanh, mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn hô hấp,ù tai, buồn nôn, lú lẫn. Đã có trường hợp trẻ em bị tử vongdo khi bôi thì uống nhầm salicylic gây ra phù thanh quản,hẹp thanh quản cấp tính.Tương tự, aciclovir là một thuốc ức chế virút gây bệnh trênda như zona thần kinh. Nó có tác dụng khá tốt khi đượcdùng tại chỗ. Nhưng nó cũng có thể gây ra phản ứng toànthân. Một trong các phản ứng toàn thân rõ rệt của loại thuốcnày là dị ứng. Trên những bệnh nhân hen cơ địa, aciclovircó thể gây ra phát ban quanh rốn mặc dù chúng bôi ở trênmặt, xuất hiện các ban đỏ dạng sẩn, cục nổi hẳn lên trênmặt da. Tác hại này là do thuốc đã ngấm vào máu, đi từ vị tríbôi đến nơi bộ phận ở da và gây ra dị ứng da. Bôi càng rộngthì mức độ dị ứng càng nặng.Một thuốc khác cũng cần cảnh báo là calcipotriol. Đây là mộtdẫn xuất của vitamin D được dùng trong trị liệu vảy nến. Nócó tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào sừng làm tăng biệthoá tế bào theo hướng bình thường. Nhưng một khi đượcngấm vào trong máu thì chúng lại tác động mạnh lên hệ thầnkinh trung ương và gây ra đau đầu.Do có thể có những tác hại toàn thân nên người bệnh hãycẩ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc bôi ngoài da: Bôi bên ngoài, hại bên trong?Thuốc bôi ngoàida: Bôi bênngoài, hại bêntrong?Mùa hè cũng là mùa của các bệnh ngoài da. Trong điềutrị các bệnh da, người ta thường sử dụng thuốc uống vàthuốc bôi.Đa phần thuốc bôi chỉ có tác dụng tại chỗ. Nhưng khi diệntích da bị bệnh lớn hoặc tổn thương sâu thì thuốc có cơ hộingấm qua da và gây nên những tác dụng toàn thân khôngkhác gì thuốc uống.Các dạng thuốc bôiHiện nay có nhiều dạng thuốc bôi trên thị trường như mỡbenzosali, hồ nước, mỡ acyclovir, kem nghệ, kem kẽm oxit,dung dịch sát khuẩn, dung dịch xanh-methylen... Thật khôngthể đếm hết được có bao nhiêu loại thuốc bôi được bày bán.Tuy nhiều thế nhưng nhìn chung, thuốc bôi bao gồm mộthoặc nhiều thành phần sau đây: chất béo, nước, bột vàthuốc. Tuỳ từng sự kết hợp, tuỳ từng tỷ lệ thành phần màchúng ta có những dạng thuốc bôi khác nhau. Có 5 loạithuốc bôi cơ bản đó là: dạng dung dịch, dạng bột, dạng hồ,dạng kem và dạng mỡ.Dạng dung dịch: Đây là dạng thuốc bôi mà trong đó baogồm hai thành phần là dung môi và thuốc tạo thành mộtdung dịch đồng nhất. Dung môi có thể là nước, cồn, ete,axeton, clorofor hoặc glycerin. Thuốc là thành phần chủ đạovì nó sẽ quyết định hoạt tính dược lý. Đa phần chúng là cácthuốc sát trùng như xanh metylen, axit boric, tím gentian.Dạng dung dịch chủ yếu dùng với vết thương, loét da, chảynước.Dạng bột là hỗn hợp khá đồng đều của tá dược và thuốc. Tádược thường được sử dụng là các loại bột có khả năngthấm hút nước mạnh như bột gạo, bột than, bột talc(Mg2SiO3), bột kaolin (Al2SiO3), bột bismuth. Thuốc trongcông thức của thuốc bột thường là các kháng sinh nhưclorocid. Thuốc bôi dạng này chủ yếu được dùng với các vếtthương nhiễm trùng chảy nước nhiều và liên tục.Thuốc mỡ là một dạng thuốc chủ yếu nhất trong họ hàngnhà thuốc bôi. Thành phần của nó có mỡ hoặc chất béo nênthuốc dễ ngấm vào sâu và tác dụng tốt. Chất béo thôngdụng là vaselin và lanoline. Thuốc được pha vào là các chấtdiệt khuẩn như kháng sinh, các axit hữu cơ, các chất làmbong vảy da như axit salicylic, các kháng sinh chống nấm,corticoid, vitamin... Thuốc mỡ chỉ được dùng khi vết thươngđã khô và đóng vảy.Dạng hồ là dạng thuốc bôi trong đó thành phần giống nhưthuốc mỡ, bao gồm chất béo, bột tạo hình và thuốc. Nhưngở dạng này, thành phần bột tạo hình nhiều hơn, từ 30-50%tổng hàm lượng. Vì có nhiều bột hơn nên nó được sử dụngtrong giai đoạn bán cấp, vết thương chuẩn bị se da.Kem là một dạng thuốc bôi mà thành phần của nó có đủ:mỡ, glycerin, nước và thuốc. Vì có thêm nước nên nó có vẻnhão hơn các dạng khác và cũng vì thế mà nó mát hơn. Nóthường được dùng để chế tạo mỹ phẩm. Thuốc đôi khi cũngđược bào chế dạng kem với chủ định là làm mát da.Thuốc có thể ngấm vào cơ thể gây tác động toàn thân.Những lưu ýCó một điều lưu ý, dù sử dụng dạng nào thì thuốc bôi khôngchỉ tác dụng tại chỗ bôi, nó hoàn toàn có nguy cơ gây ra tácdụng toàn thân. Và đây chính là tác hại của thuốc bôi khi sửdụng bất cẩn.Diện tích da bôi thuốc rộng, nồng độ thuốc cao, sử dụng kéodài là ba yếu tố chủ đạo gây ra những tác phụ ngoại ý ở bêntrong cơ thể. Thuốc sẽ có nhiều cơ hội đi vào máu, tích luỹtrong các cơ quan và gây ra những tác dụng không mongmuốn.Ví dụ, salicylic là một thuốc đầu bảng làm bạt sừng, bongvảy điều trị đặc hiệu những bệnh có dày sừng như vảy đầu(cứt trâu) ở trẻ dưới 1 tuổi, vảy nến, mụn trứng cá do bài tiếtquá nhiều. Tuy nhiên, nó lại có thể ngấm vào cơ thể gây ratác hại trên hệ thần kinh. Hai biến chứng khó chịu nhất làchóng mặt, nhức đầu do salicylic, đặc biệt khi sử dụng quánhiều ở những đối tượng sẵn có những biểu hiện này.Nhiều trường hợp ngộ độc salicylic quá gây ra hội chứngsalicylic. Đây là một hội chứng toàn thân mà do cơ thể hấpthu quá nhiều salicylic gây ra. Các dấu hiệu của hội chứngnày bao gồm: da xanh, mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn hô hấp,ù tai, buồn nôn, lú lẫn. Đã có trường hợp trẻ em bị tử vongdo khi bôi thì uống nhầm salicylic gây ra phù thanh quản,hẹp thanh quản cấp tính.Tương tự, aciclovir là một thuốc ức chế virút gây bệnh trênda như zona thần kinh. Nó có tác dụng khá tốt khi đượcdùng tại chỗ. Nhưng nó cũng có thể gây ra phản ứng toànthân. Một trong các phản ứng toàn thân rõ rệt của loại thuốcnày là dị ứng. Trên những bệnh nhân hen cơ địa, aciclovircó thể gây ra phát ban quanh rốn mặc dù chúng bôi ở trênmặt, xuất hiện các ban đỏ dạng sẩn, cục nổi hẳn lên trênmặt da. Tác hại này là do thuốc đã ngấm vào máu, đi từ vị tríbôi đến nơi bộ phận ở da và gây ra dị ứng da. Bôi càng rộngthì mức độ dị ứng càng nặng.Một thuốc khác cũng cần cảnh báo là calcipotriol. Đây là mộtdẫn xuất của vitamin D được dùng trong trị liệu vảy nến. Nócó tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào sừng làm tăng biệthoá tế bào theo hướng bình thường. Nhưng một khi đượcngấm vào trong máu thì chúng lại tác động mạnh lên hệ thầnkinh trung ương và gây ra đau đầu.Do có thể có những tác hại toàn thân nên người bệnh hãycẩ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
bệnh về da các bệnh thường gặp chăm sóc sức khoẻ y học phổ thông kiến thức y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Chất lượng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
10 trang 186 0 0 -
7 trang 181 0 0
-
4 trang 175 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 164 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 124 0 0 -
Nhận thức về năng lực thông tin sức khỏe của sinh viên
8 trang 112 0 0 -
4 trang 106 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 104 0 0 -
Tài liệu 5 bước bạn nên thực hành để tránh bị sâu răng
7 trang 92 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0