Thuốc dùng ngoài da
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 317.41 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu thuốc dùng ngoài da, y tế - sức khoẻ, y học thường thức phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc dùng ngoài daThuốc dùng ngoài daThuốc dùng ngoài da là dạng thuốc có thể chất mềm, dùng để bôi lên da hayniêm mạc để bảo vệ da, chữa bệnh ngoài da hoặc đưa thuốc thấm qua da đểcó tác dụng điều trị tại chỗ và/hoặc toàn thân.Thuốc dùng ngoài da cũng có rất nhiều dạng khác nhau: dạng mỡ, kem,thuốc băng dán, thuốc lỏng dạng dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương, dạngthuốc bột (ví dụ bột bỏng)... Hiện nay phổ biến nhất là các dạng thuốc mỡdùng ngoài da hoặc kem bôi da được đựng trong các tuýp hoặc ống như kemđánh răng bằng chất dẻo hoặc kim loại dễ bóp.Không dùng cùng lúc nhiều loại thuốc bôi ngoài daCác dạng thuốc dùng ngoài daThuốc mỡ mềm: thuốc có thể chất mềm gần giống mỡ lợn hoặc vaselin.Hoạt chất được phân bố trong tá dược là các chất dầu, mỡ hoặc sáp.Bột nhão (paste): dạng thuốc mỡ trong đó các dược chất rắn không tan ởdạng bột chiếm tỉ lệ lớn (khoảng 40%).Sáp: thuốc mỡ có thể chất dẻo do có một tỉ lệ lớn sáp, parafin hoặc alcol béocao (ví dụ như cao sao vàng, bạch hổ hoạt lạc cao...).Kem (cream): dạng thuốc có thể chất mịn màng có chứa một lượng lớn cáctá dược lỏng có cấu trúc nhũ tương.Gel: dạng thuốc chính chứa một lượng lớn các chất keo thân nước trương nởvà tạo gel khi điều chế.Khi điều chế các dạng thuốc bôi ngoài da nói trên, nhà sản xuất tùy theo tínhchất dược lý của hoạt chất mà chọn các loại tá dược khác nhau để sao chothuốc có tác dụng làm dịu da, bám tốt trên da nhưng dễ rửa sạch khi bôixong. Đối với một số thuốc bôi với mục đích không điều trị bên ngoài da màmuốn cho thuốc tác dụng vào bên trong vùng được bôi thì chất tá dược phảichọn loại sao cho dược chất thấm sâu vào trong.Đối với các thuốc dùng với mục đích điều trị ngoài da cần chọn loại thuốcmỡ hoặc kem bôi có tác dụng bảo vệ da, sát trùng, chống nấm ngoài da.Những thuốc này đã được nghiên cứu sản xuất bằng các loại tá dược sao chothuốc không có khả năng thấm sâu vào bên trong da, đồng thời lại có tácdụng bịt kín trên da ngăn cản dược chất thẩm thấu vào trong. Bản thân dalành lặn vốn không phải là cơ quan hấp thu thuốc mà ngược lại nó là hàngrào của cơ thể chống lại sự xâm nhập ngoại mô vào cơ thể.Một số thuốc mỡ dùng ngoài da nhưng với mục đích cho dược chất thấmqua da và đi vào máu gây tác dụng tại chỗ hay toàn thân (ví dụ như các loạikem giảm đau) lại phải chú ý khi sử dụng nên bôi thuốc ở chỗ nào trên cơthể. Nếu là những chỗ da mỏng như nách, bẹn, thái dương... dược chất dễthấm vào hơn những chỗ da dày.Một số dạng thuốc mỡ dùng ngoài phổ biếnCác loại cao xoa có mentol và một số loại tinh dầu khác: đây là dạng thuốctruyền thống rất thông dụng được mọi người dùng nhiều để giải cảm (cạogió), chống rét, làm nóng bụng, chữa các chứng đau cơ kinh niên... Chú ýkhông dùng thuốc này ở trẻ em nhỏ tuổi, nhất là trẻ sơ sinh vì da trẻ mỏngnên thuốc có thể gây bỏng rát. Một số loại kem bôi có metyl salicylat phốihợp với các loại tinh dầu có tác dụng giảm đau tận gốc, hiệu quả nhanh đ ượcdùng trong tập luyện thể thao khi bị sang chấn. Thoa kem lên chỗ đau xongcần xoa bóp kỹ để tăng tác dụng.Trong các chứng đau khớp cũng thường dùng thuốc này để kháng viêm,giảm cơn đau rất tốt.- Các loại thuốc mỡ trị bệnh ngoài da như thuốc DEP trị ghẻ, ASA trị nấm,BSI trị hắc lào, ketoconazol trị nấm, vảy nến... khi bôi lên vùng da bị bệnhcần làm sạch để tăng tiếp xúc giữa thuốc và da.- Thuốc mỡ có povidon iodin 10%: đây là thuốc sát trùng có iod dùng đểngăn cản sự phát triển của vi khuẩn ở các vết thươngnhỏ, nông hoặc các vếtbỏng, điều trị hỗ trợ một số bệnh ngoài da do vi trùng hoặc nấm. Ngoài racòn dùng để sát trùng trước khi phẫu thuật. Khi sử dụng các thuốc sát trùngngoài ra có iod nói chung cần thận trọng đối với những vùng da mỏng, nhấtlà đối với trẻ em. Tránh tình trạng dùng quá nhiều lần ở một vùng da mỏngcó thể gây kích ứng da hoặc tăng iodin quá mức ảnh hưởng đến chức năngtuyến giáp.- Kem bôi hoặc gel có chứa chất kháng viêm corticoid (ví dụ: flucina), chấtkháng sinh (chlorocid), chất nội tiết tố (oestrogel) hoặc chất kháng virút(zovirax) có thể ở dạng đơn chất hoặc phối hợp nhiều thành phần. Trên thịtrường có rất nhiều biệt dược loại này. Đây là các thuốc dùng ngoài để điềutrị các bệnh ngoài da tại chỗ hoặc có tác dụng toàn thân. Tuy là thuốc dùngngoài nhưng nếu lạm dụng hoặc dùng không đúng cách vẫn có thể bị cácphản ứng có hại của các hoạt chất trong thuốc như là dùng đường uống hoặctiêm. Vì vậy, đều phải sử dụng thận trọng theo hướng dẫn của thầy thuốc.Một số hoạt chất kể trên là loại thuốc chống chỉ định dùng cho trẻ em.- Hiện nay có một số dạng thuốc dùng ngoài da được bào chế thành miếngdán ngoài da có tác dụng kéo dài. Một số thuốc là dạng bào chế kỹ thuật caomà phần lớn là thuốc nhập ngoại. Đã có các dạng thuốc là hệ điều trị qua daTTS (transdermal therapeutic systems) ví dụ như TTS chứa nitroglycerindùng cho bệnh tim mạch. TTS được dán ở những vùng da mỏng theo kiểunhư băng dính và giải phóng dược chất từ từ t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc dùng ngoài daThuốc dùng ngoài daThuốc dùng ngoài da là dạng thuốc có thể chất mềm, dùng để bôi lên da hayniêm mạc để bảo vệ da, chữa bệnh ngoài da hoặc đưa thuốc thấm qua da đểcó tác dụng điều trị tại chỗ và/hoặc toàn thân.Thuốc dùng ngoài da cũng có rất nhiều dạng khác nhau: dạng mỡ, kem,thuốc băng dán, thuốc lỏng dạng dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương, dạngthuốc bột (ví dụ bột bỏng)... Hiện nay phổ biến nhất là các dạng thuốc mỡdùng ngoài da hoặc kem bôi da được đựng trong các tuýp hoặc ống như kemđánh răng bằng chất dẻo hoặc kim loại dễ bóp.Không dùng cùng lúc nhiều loại thuốc bôi ngoài daCác dạng thuốc dùng ngoài daThuốc mỡ mềm: thuốc có thể chất mềm gần giống mỡ lợn hoặc vaselin.Hoạt chất được phân bố trong tá dược là các chất dầu, mỡ hoặc sáp.Bột nhão (paste): dạng thuốc mỡ trong đó các dược chất rắn không tan ởdạng bột chiếm tỉ lệ lớn (khoảng 40%).Sáp: thuốc mỡ có thể chất dẻo do có một tỉ lệ lớn sáp, parafin hoặc alcol béocao (ví dụ như cao sao vàng, bạch hổ hoạt lạc cao...).Kem (cream): dạng thuốc có thể chất mịn màng có chứa một lượng lớn cáctá dược lỏng có cấu trúc nhũ tương.Gel: dạng thuốc chính chứa một lượng lớn các chất keo thân nước trương nởvà tạo gel khi điều chế.Khi điều chế các dạng thuốc bôi ngoài da nói trên, nhà sản xuất tùy theo tínhchất dược lý của hoạt chất mà chọn các loại tá dược khác nhau để sao chothuốc có tác dụng làm dịu da, bám tốt trên da nhưng dễ rửa sạch khi bôixong. Đối với một số thuốc bôi với mục đích không điều trị bên ngoài da màmuốn cho thuốc tác dụng vào bên trong vùng được bôi thì chất tá dược phảichọn loại sao cho dược chất thấm sâu vào trong.Đối với các thuốc dùng với mục đích điều trị ngoài da cần chọn loại thuốcmỡ hoặc kem bôi có tác dụng bảo vệ da, sát trùng, chống nấm ngoài da.Những thuốc này đã được nghiên cứu sản xuất bằng các loại tá dược sao chothuốc không có khả năng thấm sâu vào bên trong da, đồng thời lại có tácdụng bịt kín trên da ngăn cản dược chất thẩm thấu vào trong. Bản thân dalành lặn vốn không phải là cơ quan hấp thu thuốc mà ngược lại nó là hàngrào của cơ thể chống lại sự xâm nhập ngoại mô vào cơ thể.Một số thuốc mỡ dùng ngoài da nhưng với mục đích cho dược chất thấmqua da và đi vào máu gây tác dụng tại chỗ hay toàn thân (ví dụ như các loạikem giảm đau) lại phải chú ý khi sử dụng nên bôi thuốc ở chỗ nào trên cơthể. Nếu là những chỗ da mỏng như nách, bẹn, thái dương... dược chất dễthấm vào hơn những chỗ da dày.Một số dạng thuốc mỡ dùng ngoài phổ biếnCác loại cao xoa có mentol và một số loại tinh dầu khác: đây là dạng thuốctruyền thống rất thông dụng được mọi người dùng nhiều để giải cảm (cạogió), chống rét, làm nóng bụng, chữa các chứng đau cơ kinh niên... Chú ýkhông dùng thuốc này ở trẻ em nhỏ tuổi, nhất là trẻ sơ sinh vì da trẻ mỏngnên thuốc có thể gây bỏng rát. Một số loại kem bôi có metyl salicylat phốihợp với các loại tinh dầu có tác dụng giảm đau tận gốc, hiệu quả nhanh đ ượcdùng trong tập luyện thể thao khi bị sang chấn. Thoa kem lên chỗ đau xongcần xoa bóp kỹ để tăng tác dụng.Trong các chứng đau khớp cũng thường dùng thuốc này để kháng viêm,giảm cơn đau rất tốt.- Các loại thuốc mỡ trị bệnh ngoài da như thuốc DEP trị ghẻ, ASA trị nấm,BSI trị hắc lào, ketoconazol trị nấm, vảy nến... khi bôi lên vùng da bị bệnhcần làm sạch để tăng tiếp xúc giữa thuốc và da.- Thuốc mỡ có povidon iodin 10%: đây là thuốc sát trùng có iod dùng đểngăn cản sự phát triển của vi khuẩn ở các vết thươngnhỏ, nông hoặc các vếtbỏng, điều trị hỗ trợ một số bệnh ngoài da do vi trùng hoặc nấm. Ngoài racòn dùng để sát trùng trước khi phẫu thuật. Khi sử dụng các thuốc sát trùngngoài ra có iod nói chung cần thận trọng đối với những vùng da mỏng, nhấtlà đối với trẻ em. Tránh tình trạng dùng quá nhiều lần ở một vùng da mỏngcó thể gây kích ứng da hoặc tăng iodin quá mức ảnh hưởng đến chức năngtuyến giáp.- Kem bôi hoặc gel có chứa chất kháng viêm corticoid (ví dụ: flucina), chấtkháng sinh (chlorocid), chất nội tiết tố (oestrogel) hoặc chất kháng virút(zovirax) có thể ở dạng đơn chất hoặc phối hợp nhiều thành phần. Trên thịtrường có rất nhiều biệt dược loại này. Đây là các thuốc dùng ngoài để điềutrị các bệnh ngoài da tại chỗ hoặc có tác dụng toàn thân. Tuy là thuốc dùngngoài nhưng nếu lạm dụng hoặc dùng không đúng cách vẫn có thể bị cácphản ứng có hại của các hoạt chất trong thuốc như là dùng đường uống hoặctiêm. Vì vậy, đều phải sử dụng thận trọng theo hướng dẫn của thầy thuốc.Một số hoạt chất kể trên là loại thuốc chống chỉ định dùng cho trẻ em.- Hiện nay có một số dạng thuốc dùng ngoài da được bào chế thành miếngdán ngoài da có tác dụng kéo dài. Một số thuốc là dạng bào chế kỹ thuật caomà phần lớn là thuốc nhập ngoại. Đã có các dạng thuốc là hệ điều trị qua daTTS (transdermal therapeutic systems) ví dụ như TTS chứa nitroglycerindùng cho bệnh tim mạch. TTS được dán ở những vùng da mỏng theo kiểunhư băng dính và giải phóng dược chất từ từ t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
điều cần biết về thuốc ngoài da thuốc ngoài da tác dụng của thuốc ngoài da y học cơ sở kiến thức về thuốc kiến thức y họcTài liệu liên quan:
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 183 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 109 0 0 -
4 trang 109 0 0
-
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
Giáo trình Y học cơ sở (Tài liệu dành cho Dược trung cấp) - Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh
285 trang 60 1 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 53 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 47 0 0