Danh mục

Thuốc kháng virut

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.64 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các bệnh lây nhiễm gây khủng hoảng toàn thế giới đều do tác nhân gây bệnh là virut gây ra. Sát thủ hàng đầu phải kể đến là HIV/AIDS. Hiện nay chưa có thuốc chữa và thuốc ngừa hữu hiệu đối với loại virut này. Mới đây là coronavirus gây bệnh SARS Các bệnh lây nhiễm gây khủng hoảng toàn thế giới đều do tác nhân gây bệnh là virut gây ra. Sát thủ hàng đầu phải kể đến là HIV/AIDS. Hiện nay chưa có thuốc chữa và thuốc ngừa hữu hiệu đối với loại virut này. Mới đây...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc kháng virut Thuốc kháng virut Các bệnh lây nhiễm gây khủng hoảng toàn thế giới đều do tácnhân gây bệnh là virut gây ra. Sát thủ hàng đầu phải kể đến làHIV/AIDS. Hiện nay chưa có thuốc chữa và thuốc ngừa hữu hiệu đốivới loại virut này. Mới đây là coronavirus gây bệnh SARS Các bệnh lây nhiễm gây khủng hoảng toàn thế giới đều do tácnhân gây bệnh là virut gây ra. Sát thủ hàng đầu phải kể đến làHIV/AIDS. Hiện nay chưa có thuốc chữa và thuốc ngừa hữu hiệu đốivới loại virut này. Mới đây là coronavirus gây bệnh SARS, virut cúm AH5N1 gây hội chứng viêm phổi cấp được cho là có thể có liên quan đếnbệnh cúm gà… Đây là những virut gây bệnh nguy hiểm có tỷ lệ tử vongcao. Có tình trạng nghịch lý cần ghi nhận là ở các thế kỷ trước, việc nghiêncứu tìm ra tác nhân gây bệnh rất khó khăn, phải mất hàng chục năm thậm chíhàng trăm năm nhưng khi tìm được tác nhân gây bệnh thì việc tìm ra thuốcchữa bệnh lại khá dễ dàng, còn ngày nay thì ngược lại. Với virut HIV, việcnhận diện tác nhân gây bệnh này khá nhanh, chỉ 2 năm sau khi ca AIDS đầutiên được phát hiện người ta đã phát hiện thủ phạm đúng là HIV. Nhưng chotới nay việc nghiên cứu tìm được thuốc trị liệu có hiệu quả, tiêu diệt hoàntoàn HIV vẫn còn ở phía trước. Đối với bệnh SARS, bệnh cúm A mới vừabộc phát trong thời gian ngắn, người ta đã xác định được tác nhân gây bệnhlà loại virut gì. Không những thế các nhà khoa học còn biết rõ cấu trúc, hìnhhài của chúng. Thế nhưng việc dùng thuốc điều trị lại không chắc chắn hiệuquả, an toàn. Cấu trúc và cách sống của virut Để hiểu rõ cơ chế tác động của thuốc kháng virut, đặc biệt biết đượctại sao thuốc kháng virut có những hạn chế nhất định, ta cần có một số hiểubiết về cấu trúc và cách sống của virut. Virut là loại vi sinh vật nhỏ hơn rất nhiều so với vi khuẩn (chỉ nhìnđược nhờ kính hiển vi điện tử) và có cấu trúc gọi là “phi tế bào”. Virut bắtbuộc phải sống ký sinh, tức “ăn nhờ ở đậu” bên trong tế bào ký chủ mà nóxâm nhiễm (HIV sống bên trong tế bào bạch cầu có tên Lympho bào T gọitắt là CD4, còn virut cúm A sống bên trong tế bào của hệ hô hấp...). Cấu trúc của virut chỉ gồm có 2 phần: - Lớp vỏ bên ngoài gồm các glycoprotein được gọi là các khángnguyên (như HIV có kháng nguyên GP 120, virut cúm A chứa kháng nguyênH và N và loại rất độc lưu hành hiện nay được định danh H5N1). - Phần nhân bên trong (còn gọi là capsid) chỉ chứa protein và bộ genlà DNA hoặc RNA (như ở virut cúm bộ gen là RNA gồm 8 mảnh rời nhau,HIV có bộ gen là 2 chuỗi RNA). Quá trình xâm nhiễm và nhân lên của virut trong tế bào gồm các giaiđoạn: - Gắn và xâm nhập tế bào bằng cách trút bỏ lớp vỏ và hòa nhập capsidvào bên trong tế bào bị nhiễm. - Dựa vào hoạt động của tế bào bị nhiễm, virut tổng hợp nguyên liệumà nó cần. Virut cúm tổng hợp RNA là lõi bộ gen của nó, hoặc RNA củaHIV lại được phiên mã thành DNA nhờ men phiên mã ngược có tên reversetranscriptase. - Cũng bên trong tế bào bị nhiễm, virut tìm cách nhân lên nhiều virutmới (gọi là sự sao chép của virut). - Các virut mới trưởng thành được phóng thích khỏi tế bào đã nhiễmđể xâm nhập các tế bào mới. Các thuốc chống virut Hiểu được cấu trúc và cách sinh sống của virut, các nhà khoa học tìmra thuốc kháng virut có cơ chế tác động vào các giai đoạn đã kể trên. Đó làcác thuốc: Amantadin: tác động ở giai đoạn 1, tức là ức chế sự hòa nhập virutvào bên trong tế bào ký chủ. Cũng thuộc loại này acyclovir ức chế sự tổnghợp DNA của virut Herpes. Zidovudin (retrovir, gọi tắt là AZT): đây là thuốc điều trị HIV. Cơ chếcủa thuốc là ức chế sự phiên mã ngược RNA thành DNA của HIV làm choHIV ngưng phát triển, không sinh sản được. Cũng thuốc loại này còn códidancsine, zalcitabin, lamivudin... Cseltamivir (tamiflu): thuốc có tác dụng ở giai đoạn cuối tức là ngănkhông cho virut cúm sao chép trưởng thành và phóng thích ra khỏi tế bàobằng cách ức chế men neuraminidase (chính là kháng nguyên N c ủa lớp vỏcủa virut cúm). Thuốc ức chế protease: gồm có indinavir, ritonavir, saquinavir,nelfinavir. Đây là nhóm thuốc phối hợp với AZT để trị HIV. Cơ chế củathuốc ức chế protease làm cho men phân giải đạm của HIV không hoạt độngđược để nó nhân lên thành nhiều con HIV mới. Gamma globulin và interferon: đây chính là các chất sinh học do cơthể sản xuất ra để chống lại virut. Gamma globulin ngăn virut xâm nhập vàotế bào vì có chứa kháng thể chống lại kháng nguyên bề mặt nằm trên lớp vỏcủa virut. Còn interferon kháng virut bằng cách ngăn cản virut tổng hợpprotein, RNA hoặc DNA của nó trong tế bào. Như vậy trong cơ thể ta luôncó nội lực kháng lại bệnh tật, kể cả các bệnh truyền nhiễm do virut. Hiểu rõđiều này, các nhà khoa học đã tổng hợp gamma globulin và interferon dùnglàm thuốc. Tại sao virut lại ...

Tài liệu được xem nhiều: