Danh mục

Ti ểu luận Lịch sử tiền tệ Việt Nam

Số trang: 7      Loại file: docx      Dung lượng: 1.14 MB      Lượt xem: 23      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ các đời Đinh, Lê, Lý, Trân, Hồ, Mạc, Nguyễn…. cho đến nay, khi trải qua các cuộcđấu tranh gian khổ từ thời kỳ Bắc thuộc đến Pháp thuộc thì đồng tiền Việt Nam đấtnước ta đã nhiều lần thay đổi đơn vị tiền tệ cũng như tên gọi của đồng tiền, đó là mộthiện thực chứng minh cho tinh thần độc lập tự cường dân tộc không chịu làm nô lệ, làhiện thân của một quá khứ tự hào, là chứng nhân lịch sử chói lòa....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ti ểu luận Lịch sử tiền tệ Việt Nam Tiểu luận Lịch sử tiền tệ Việt NamTừ các đời Đinh, Lê, Lý, Trân, Hồ, Mạc, Nguyễn…. cho đến nay, khi tr ải qua các cu ộcđấu tranh gian khổ từ thời kỳ Bắc thuộc đến Pháp thuộc thì đồng tiền Vi ệt Nam đấtnước ta đã nhiều lần thay đổi đơn vị tiền tệ cũng như tên g ọi của đ ồng ti ền, đó là m ộthiện thực chứng minh cho tinh thần độc lập tự cường dân tộc không ch ịu làm nô l ệ, làhiện thân của một quá khứ tự hào, là chứng nhân l ịch s ử chói lòa.Lịch sửThời Bắc thuộcThời điểm này nước ta chưa dành được độc lập chủ quyền, vẫn đang chịu ách đô h ộcủa nhà Hán, vì vậy tiền tệ lưu hành trong nước là tiền đ ồng Trung Qu ốc.Căn c ứ vàonhững đồng tiền thu được khi tiến hành khảo cổ, từ thời Bắc thuộc tiền đồng Trungquốc đã được sử dụng ở Việt Nam như tiền Hán nguyên thông bảo của nhà Hán,đồng Khai nguyên thông bảo của nhà Đường. Bên cạnh đó, những đĩnh vàng,đĩnh bạc của Trung quốc cũng được lưu hành.Thời Quân chủ độc lậpNgoài những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền t ệ Việt Nam ch ủ y ếu là ti ền đồng, tiền kẽm. • Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hoàng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông bảo sau đó Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo. • Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tông, tiền đồng có hiệu Minh đạo thông bảo, sang đến triều Lý Thần Tông, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thông bảo. • Thời Trần, Hồ: các triều vua quân chủ cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh Tông (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng không được thuận tiện nên nhanh chóng bị bãi b ỏ. D ưới tri ều vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền gi ấy gọi là Thông bảo hội sao. Tiền giấy Thông bảo hội sao có các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30 đồng vẽ sóng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân, 2 tiền vẽ rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư có tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà nước và cứ 1 quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử hình nhằm loại bỏ hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy.• Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đô hộ, khi Lê Thái Tổ lật đổ ách thống trị của nhà Minh và lên ngôi vua, tiền đồng trong n ước không còn, ông cho đúc tiền đồng Thuận thiên thông bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng. Triều vua Lê Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng 60 đồng. Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm 1658, tiền kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên t ốn kém chi phí nên nhà vua cho mở rất nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ 37), tiền đồng niên hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại bác bằng đồng không sử dụng nữa.• Thời Nguyễn: Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Các triều vua sau của nhà Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và có lúc đúc cả tiền kẽm. Song song v ới tiền đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện từ khoảng năm 1820, cuối triều Gia Long, đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng.Thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộcPhápTrong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đông Dương là piastre, được dịchra tiếng Việt là đồng hay đôi khi là bạc. Tiền tệ do chính quyền trong giai đo ạn nàylấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguy ễn v ẫn đ ược l ưuhành chủ yếu ở các vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đ ầu có đ ồngbạc Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đ ồng b ạc ĐôngDương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn). Ti ền gi ấy th ời kỳnày được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân hàng đổi thànhbạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đông Dương in tiềngiấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra thìtỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhi ều l ần s ố b ạc đảm b ảo.Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Phápcósắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông Dương) có giá trị là 655 miligam vàng(độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bảnvị vàng.Thời kỳ sau Cách mạng tháng TámTừ 1945-1954: Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 31tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định phát hành tiền ViệtNam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 31 tháng 11 năm 1946, giấy bạc Việt NamDân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộnghòa bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Hồ Chí Minh; một mặt inhình Nông - Công - Binh. Các loại giấ ...

Tài liệu được xem nhiều: