Danh mục

TIỀM NĂNG CỦA TÔM THẺ CHÂN TRẮNG

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 182.21 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

(Penaeus Vannamei) THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Tôm thẻ chân trắng có nguồn gốc từ Nam Mỹ, hiện đang được phát triển nuôi ở nhiều nước trên thế giới. Riêng ở Việt Nam và vùng ĐBSCL, tôm thẻ chân trắng được đưa vào nuôi thử nghiệm năm 2002. Đến năm 2008, Bộ NN&PTNT có chủ trương cho phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng. Theo đó, với các tỉnh Nam bộ phải có quy hoạch vùng nuôi và có hệ thống thủy lợi, cơ sở hạ tầng đảm bảo cho nuôi thâm canh. Các tỉnh ven biển từ Bình Thuận tới...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TIỀM NĂNG CỦA TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TIỀM NĂNG CỦA TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus Vannamei) THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Tôm thẻ chân trắng có nguồn gốc từ Nam Mỹ, hiện đang được phát triển nuôi ở nhiều nước trên thế giới. Riêng ở Việt Nam và vùng ĐBSCL, tôm thẻ chân trắng được đưa vào nuôi thử nghiệm năm 2002. Đến năm 2008, Bộ NN&PTNT có chủ trương cho phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng. Theo đó, với các tỉnh Nam bộ phải có quy hoạch vùng nuôi và có hệ thống thủy lợi, cơ sở hạ tầng đảm bảo cho nuôi thâm canh. Các tỉnh ven biển từ Bình Thuận tới Quảng Ninh được nuôi trong vùng nuôi tôm của địa phương. Năm 2002, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng của cả nước là 1.710 ha, sản lượng 10.000 tấn. Năm 2007 diện tích nuôi đạt 4.000 ha, sản lượng đạt 30.000 tấn. Năm 2008, diện tích nuôi khoảng 8.000 ha; nă m 2009 tăng lên 14.500 ha và đến năm 2010 đã tăng lên trên 25.300 ha. Các tỉnh miền Trung và miền Bắc chiếm 17.960 ha, bằng 72% diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng của cả nước. Các tỉnh khu vực ĐBSCL đang phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng trong phạm vi hẹp, trong đó tỉnh Sóc Trăng đến năm 2011 khoảng 150 ha; Cà Mau khoảng 200 ha; Bạc Liêu khoảng 158 ha. Theo nhận định của Sở NN- PTNT các tỉnh trong khu vực ĐBSCL, nuôi tôm thẻ chân trắng khá thuận lợi. Khả năng đề kháng của tôm thẻ chân trắng tốt, thích nghi nhanh với sự biến thiên của sự thay đổi môi trường, khí hậu, độ mặn. Vòng xoay của tôm thẻ chân trắng nhanh hơn tôm sú (có thể nuôi 1,5 đến 2 vụ/năm, trong khi tôm sú chỉ 1 vụ/năm). Tỉ lệ thiệt hại thấp hơn so với tôm sú. Giá tôm thẻ nguyên liệu đang có chiều hướng tăng cao... Hình thức nuôi: Tôm chân trắng hay tôm P.vannamei là loại tôm có cường độ bắt mồi khoẻ, lớn nhanh thích hợp với các hình thức nuôi thâm canh như mô hình ít thay nước, mô hình tuần hoàn khép kín. Diện tích ao nuôi từ 0,5 - 1ha, độ sâu của nước 1,5 - 2m, mật độ từ 25 - 60 con/m2 như tôm sú nhưng thời gian nuôi chỉ cần 80 ngày tôm đạt cỡ 50 con/kg, trong khi đó tôm sú phải cần 110 - 120 ngày. Chọn vùng nuôi: Ðịa hình phù hợp cho việc xây dựng ao nuôi công nghiệp là vùng cao triều mới thuận lợi cho việc cấp nước, thoát nước và phơi khô đáy ao khi cải tạo. Tôm P.vannamei không thích sống ở ao đáy cát hoặc đáy bùn nên đất xây dựng ao phải là đất thịt hoặc đất pha cát, ít mùn hữu cơ, có kết cấu chặt, giữ được nước, pH của đất phải từ 5 trở lên. Nguồn nước cung cấp chủ động, không bị ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp hoặc sinh hoạt pH của nước từ 8,0 đến 8,3. Ðộ mặn từ 10 - 25 . Về kinh tế xã hội : Nên chọn địa điểm vùng nuôi thuận lợi về giao thông, gần nguồn điện, gần nơi cung cấp các dịch vụ cho nghề nuôi tôm và an ninh trật tự tốt. Thời vụ nuôi: Tôm P.vannamei là loại tôm rộng độ mặn, rộng nhiệt, nhưng phạm vi thích hợp để tôm sinh trưởng nhanh có giới hạn. ở các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ thời gian tháng 2 hằng năm nhiệt độ nước còn dưới 18oC. Mùa mưa bão thường xảy ra trong tháng 8 và tháng 9. Do vậy, vụ nuôi tôm chỉ bắt đầu được từ cuối tháng 3, đầu tháng 4 đến hết tháng 7 và vụ II từ tháng 10 đến tháng 12. ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ vụ nuôi từ tháng 1 tháng 2 đến hết tháng 8, mỗi vụ từ 3 đến 4 tháng, mùa mưa từ tháng 9 - 11 hằng năm. THUẬN LỢI Trong những năm gần đây tôm thẻ chân trắng có vai trò, vị thế quan trọng trong cơ cấu sản xuất, xuất khẩu (XK) tôm của Việt Nam, góp phần không nhỏ trong việc ổn định nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến, duy trì và đẩy mạnh giá trị XK tôm nói riêng và kim ngạch XK thủy sản của cả nước nói chung. Theo VASEP, giá trị XK của riêng tôm chân trắng năm 2010 đã đạt 414,6 triệu USD, tăng gấp rưỡi so với năm 2009, bằng 20% giá trị XK tôm nói chung và bằng 8% tổng giá trị XK tất cả các sản phẩm thủy sản. Hiệu quả sử dụng đất khi nuôi tôm thẻ chân trắng cũng cao hơn hẳn so với tôm sú, bởi theo người nuôi tôm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tôm thẻ chân trắng là có thể thả nuôi quanh nă m, sản lượng cao thời gian nuôi ngắn, vòng vốn quay nhanh… Thời gian nuôi tôm thẻ chân trắng rất ngắn, mỗi vụ nuôi chỉ khoảng 2,5-3 tháng. Bên cạnh đó, sản lượng tôm thẻ chân trắng nuôi thâm canh trên mỗi hecta bình quân khoảng 7-8 tấn – năng suất rất cao. Có thể nói ở tỉnh Tiền Giang, nhiều nông dân cũng chọn tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi chính của mình, bởi tôm thẻ chân trắng dễ nuôi, ít phát sinh dịch bệnh nên việc chăm sóc, quản lý ao nuôi tôm thẻ chân trắng cũng không quá khó khăn, tỷ lệ nuôi thành công cao. KHÓ KHĂN -Nuôi tôm thẻ chân trắng cũng có một số khó khăn như chi phí con giống cao, nguồn con giống không nhều có lúc phải nhập từ nước ngoài - chưa chủ động được nguồn con giống. -Lượng thức ăn cho tôm khá nhiều trong quá trình nuôi và tôm hoạt động bắt mồi liên tục nên khó kiểm soát được thức ăn dư thừa trong ao nuôi. -Chi phí cao nhiên liệu như xăng dầu, trang thiết bị, xây dựng công trình ao nuôi. -Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm còn yếu kém. -Tổ chức sản xuất còn mang tính nhỏ lẻ, phương thức sản xuất tự phát. -Môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, tình hình sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh còn nhiều dẫn đến chất lượng tôm nguyên liệu chưa cao. -Trình độ kỹ thuật cũng như quản lý của người nuôi chưa đồng đều nên khả năng tiếp cận, cập nhật kiến thức chuyên môn còn hạn chế, chưa có qui trình nuôi cụ thể. Việc thu mua tôm thẻ chân trắng của nhà chế biến có lúc hạn chế do phải tốn nhiều nhân công, chi phí bảo quản lớn... NHỮNG SAI LẦM KỸ THUẬT TRONG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG Quá kỳ vọng vào đối tượng mới: Người ta thường nghĩ nuôi tôm thẻ chân trắng là đối tượng mới, sức sống cao nên rất dễ ăn, nếu như con tôm sú có hàng lọat khó khăn, rủi ro, thời gian nuôi dài, mật độ thấp, dịch bệnh, v.v.v, thì con tôm thẻ chân trắng khác hẳn. Chính vì những ưu điểm đó mà người ta quá chủ quan vào kỹ thuật nuôi tôm sẵn có mà áp dụng, nuôi mật độ quá cao trên 100con/m2. Dẫn đến tôm chậm lớn, hao thức ăn, hao đầu con do thiếu oxy, tôm ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: