Tiểu luận: Hiệu đính chương III giáo trình phát triển nông thôn
Số trang: 29
Loại file: pdf
Dung lượng: 632.77 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm tạo cơ sở thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, xoá đói giảm nghèo và giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị là chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước ta.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Hiệu đính chương III giáo trình phát triển nông thôn TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ---------- Hiệu đính chương III giáo trình : PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Giáo viên hướng dẫn : TS .Trần Đắc Dân Nhóm thực hiện: Nhóm 3 - Huỳnh Lê Ái Linh - Ngô Thị Thanh Hương - Lê Thị Dung - Nguyễn Thị Như Ngọc - Nguyễn Đại Thắng Đà Lạt – 2012 Chương III PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG DỊCH VỤ XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN I. PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN 1. Vai trò của phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là hệ thống các công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cơ sở hạ tầng bao gồm cung cấp nước, tưới tiêu và phòng chống bão lụt, cung cấp năng lượng, giao thông, thông tin liên lạc... Kinh tế - xã hội nông thôn không thể phát triển nếu các yếu tố cơ sở hạ tầng không được đáp ứng. Sản xuất và đời sống phát triển đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải được đầu tư ngày càng hoàn thiện và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng được đầu tư đi trước một bước với tầm nhìn mang tính chiến lược để phục vụ lâu dài, phù hợp và có hiệu quả. Một trong 18 kinh nghiệm được rút ra trong phát triển nhanh và có hiệu quả nền kinh tế - xã hội từ các nước được coi là “Bốn con rồng châu Á” đó là ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong đó giao thông đi trước một bước. Cơ sở hạ tầng bao gồm một tổng thể các công trình mang tính hệ thống, đồng bộ, phục vụ lâu dài, có tính thẩm mỹ, tính tiên phong định hướng, vốn đầu tư lớn. Do đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư, xây dựng chính sách giá cả và luật lệ trong quản lý và sử dụng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn và thường bao gồm bốn nguồn chính: Ngân sách Nhà nước; viện trợ hoặc vốn vay nước ngoài; vốn doanh nghiệp Nhà nước; vốn đầu tư tư nhân. Ðối với các địa phương, vốn xây dựng cơ sở hạ tầng còn có thể huy động từ sự đóng góp tài chính và sức lao động của dân. Ðịa bàn nông thôn trải rộng và phân bố trên phạm vi toàn quốc, các làng xã phân bố rải rác dẫn tới việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thường tốn kém và khó khăn, nếu không có cách nhìn đúng nông thôn sẽ ít có cơ hội nhận được sự đầu tư và như vậy càng làm cho khu vực nông thôn tụt hậu so với thành thị. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm tạo cơ sở thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, xoá đói giảm nghèo và giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị là chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước ta. 2. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Trước đây hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam rất lạc hậu do nền kinh tế yếu kém, do hậu quả của chiến tranh và thiên tai. Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhất là từ thời kỳ đổi mới gần 20 năm qua, Ðảng và Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn bằng các chương trình, dự án quốc gia về điện, giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh xá... Ðặc biệt Chương trình “135” về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã hỗ trợ cho 2320 xã nghèo. Kết quả của cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thuỷ sản được tiến hành cuối năm 2001 do Tổng cục Thống kê công bố đã phản ánh những tiến bộ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. - Về điện, thời kỳ 1994 - 2001 là thời kỳ điện khí hoá nông thôn thực sự được coi trọng và có tiến bộ vượt bậc. Nếu năm 1994 mới có 60% số xã, 50% số thôn và 53% số hộ có điện thì đến cuối năm 2003 đã có 93,9% số xã, 86,8% số hộ dùng điện. Năm 2011, cả nước đã có thêm 1,6 triệu hộ dân có điện phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh. Tính đến đầu năm 2012, 100% số huyện, 98,84% số xã, 97,38% số hộ dân (trong đó, riêng hộ dân nông thôn chiếm 96,43%) trên cả nước đã có điện. Việt Nam đang nằm trong nhóm đầu của châu Á về điện khí hóa nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Các đơn vị thành viên của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã bán điện trực tiếp đến hộ dân nông thôn tại 7.312 xã (chiếm 81,32% số xã có điện), 12,565 triệu hộ dân nông thôn mua điện trực tiếp từ điện lực (chiếm 80,18% số hộ dân nông thôn) sử dụng điện cùng một giá như người dân đô thị). Comment [ND1]: http://nangluongvietnam - Giao thông nông thôn, là một yếu tố được Nhà nước quan tâm và đầu tư, đến cuối năm .vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien- nghi/loi-ich-tu-dien-khi-hoa-nong-thon.html 2001 cả nước có 94,5% số xã có đường ô tô đến trung tâm so với năm 1994 con số đó mới là 85%. Chất lượng đường tuy còn thấp nhưng đã có nhiều tiến bộ so với trước, đã có 16,5% số xã có 50% đường liên thôn được đổ nhựa hoặc bê tông. Trong giai đoạn 2001-2010, nhờ có các chủ trương lớn của Đảng và việc thực hiện quyết liệt của Chính phủ, hiện nay hệ thống giao thông nông thốn đã có bước phát triển căn bản và nhảy vọt, làm thay đổi không chỉ về số lượng mà còn nâng cấp về chất lượng con đường về tới tận thôn xóm tạo điều kiện thuận lợi phát văn hóa, xã hội và thu hút các lĩnh vực đầu tư về khu vực nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.Theo số liệu thống kê, đến 01/7/2011 cả nước đã có 8940 xã, chiếm 98,6% tổng số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2,3% so với năm 2006), trong đó đi lại được 4 mùa là 8803 xã, chiếm 97,1% ( tăng 3,5% so với năm 2006); trong đó xã có đường ô tô đến trung tâ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Hiệu đính chương III giáo trình phát triển nông thôn TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ---------- Hiệu đính chương III giáo trình : PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Giáo viên hướng dẫn : TS .Trần Đắc Dân Nhóm thực hiện: Nhóm 3 - Huỳnh Lê Ái Linh - Ngô Thị Thanh Hương - Lê Thị Dung - Nguyễn Thị Như Ngọc - Nguyễn Đại Thắng Đà Lạt – 2012 Chương III PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG DỊCH VỤ XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN I. PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN 1. Vai trò của phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là hệ thống các công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cơ sở hạ tầng bao gồm cung cấp nước, tưới tiêu và phòng chống bão lụt, cung cấp năng lượng, giao thông, thông tin liên lạc... Kinh tế - xã hội nông thôn không thể phát triển nếu các yếu tố cơ sở hạ tầng không được đáp ứng. Sản xuất và đời sống phát triển đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải được đầu tư ngày càng hoàn thiện và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng được đầu tư đi trước một bước với tầm nhìn mang tính chiến lược để phục vụ lâu dài, phù hợp và có hiệu quả. Một trong 18 kinh nghiệm được rút ra trong phát triển nhanh và có hiệu quả nền kinh tế - xã hội từ các nước được coi là “Bốn con rồng châu Á” đó là ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong đó giao thông đi trước một bước. Cơ sở hạ tầng bao gồm một tổng thể các công trình mang tính hệ thống, đồng bộ, phục vụ lâu dài, có tính thẩm mỹ, tính tiên phong định hướng, vốn đầu tư lớn. Do đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư, xây dựng chính sách giá cả và luật lệ trong quản lý và sử dụng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn và thường bao gồm bốn nguồn chính: Ngân sách Nhà nước; viện trợ hoặc vốn vay nước ngoài; vốn doanh nghiệp Nhà nước; vốn đầu tư tư nhân. Ðối với các địa phương, vốn xây dựng cơ sở hạ tầng còn có thể huy động từ sự đóng góp tài chính và sức lao động của dân. Ðịa bàn nông thôn trải rộng và phân bố trên phạm vi toàn quốc, các làng xã phân bố rải rác dẫn tới việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn thường tốn kém và khó khăn, nếu không có cách nhìn đúng nông thôn sẽ ít có cơ hội nhận được sự đầu tư và như vậy càng làm cho khu vực nông thôn tụt hậu so với thành thị. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm tạo cơ sở thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, xoá đói giảm nghèo và giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị là chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước ta. 2. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Trước đây hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam rất lạc hậu do nền kinh tế yếu kém, do hậu quả của chiến tranh và thiên tai. Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhất là từ thời kỳ đổi mới gần 20 năm qua, Ðảng và Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn bằng các chương trình, dự án quốc gia về điện, giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh xá... Ðặc biệt Chương trình “135” về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã hỗ trợ cho 2320 xã nghèo. Kết quả của cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp, thuỷ sản được tiến hành cuối năm 2001 do Tổng cục Thống kê công bố đã phản ánh những tiến bộ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. - Về điện, thời kỳ 1994 - 2001 là thời kỳ điện khí hoá nông thôn thực sự được coi trọng và có tiến bộ vượt bậc. Nếu năm 1994 mới có 60% số xã, 50% số thôn và 53% số hộ có điện thì đến cuối năm 2003 đã có 93,9% số xã, 86,8% số hộ dùng điện. Năm 2011, cả nước đã có thêm 1,6 triệu hộ dân có điện phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh. Tính đến đầu năm 2012, 100% số huyện, 98,84% số xã, 97,38% số hộ dân (trong đó, riêng hộ dân nông thôn chiếm 96,43%) trên cả nước đã có điện. Việt Nam đang nằm trong nhóm đầu của châu Á về điện khí hóa nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Các đơn vị thành viên của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã bán điện trực tiếp đến hộ dân nông thôn tại 7.312 xã (chiếm 81,32% số xã có điện), 12,565 triệu hộ dân nông thôn mua điện trực tiếp từ điện lực (chiếm 80,18% số hộ dân nông thôn) sử dụng điện cùng một giá như người dân đô thị). Comment [ND1]: http://nangluongvietnam - Giao thông nông thôn, là một yếu tố được Nhà nước quan tâm và đầu tư, đến cuối năm .vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien- nghi/loi-ich-tu-dien-khi-hoa-nong-thon.html 2001 cả nước có 94,5% số xã có đường ô tô đến trung tâm so với năm 1994 con số đó mới là 85%. Chất lượng đường tuy còn thấp nhưng đã có nhiều tiến bộ so với trước, đã có 16,5% số xã có 50% đường liên thôn được đổ nhựa hoặc bê tông. Trong giai đoạn 2001-2010, nhờ có các chủ trương lớn của Đảng và việc thực hiện quyết liệt của Chính phủ, hiện nay hệ thống giao thông nông thốn đã có bước phát triển căn bản và nhảy vọt, làm thay đổi không chỉ về số lượng mà còn nâng cấp về chất lượng con đường về tới tận thôn xóm tạo điều kiện thuận lợi phát văn hóa, xã hội và thu hút các lĩnh vực đầu tư về khu vực nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.Theo số liệu thống kê, đến 01/7/2011 cả nước đã có 8940 xã, chiếm 98,6% tổng số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã (tăng 2,3% so với năm 2006), trong đó đi lại được 4 mùa là 8803 xã, chiếm 97,1% ( tăng 3,5% so với năm 2006); trong đó xã có đường ô tô đến trung tâ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tiểu luận kinh tế phát triển Tiểu luận luật kinh tế Phát triển nhãn hiệu Tiểu luận kinh tế nông nghiệp Phát triển nông thôn Tiểu luận kinh tế nông thônGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Thực trạng áp dụng luật đầu tư hiện nay tại Việt Nam
7 trang 310 0 0 -
Tiểu luận: Sự ổn định của bộ ba bất khả thi và các mẫu hình kinh tế vĩ mô quốc tê
29 trang 304 0 0 -
Tiểu luận Kinh tế phát triển so sánh: Kinh tế Trung Quốc
36 trang 292 0 0 -
Tiểu luận: Pháp luật kinh doanh quốc tế theo pháp luật Anh
17 trang 233 0 0 -
Hai mô hình phát triển và sự đổi mới kinh tế thông qua thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
348 trang 209 0 0 -
14 trang 199 0 0
-
Bài Tiểu luận môn kinh tế phát triển: Chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh bình phước
57 trang 171 0 0 -
70 trang 165 0 0
-
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng tranh chấp lao động ở Việt Nam
23 trang 154 0 0 -
Giáo trình Quy hoạch phát triển nông thôn - PGS.TS. Nguyễn Ngọc Nông (chủ biên)
132 trang 151 1 0