sau đây là phần 2 của cuốn sách. phần 2 cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích về tục lệ thờ cúng đặc sắc của ba miền, tục thờ thần tài trong giới kinh doanh buôn bán và một số văn khấn thường dùng trong tín ngưỡng thờ cúng nói chung. Đồng thời, những kiến thức trong cuốn sách có thể ứng dụng vào trong các hoạt động cụ thể thường nhật của mình, nhằm hướng tới và đạt được những điều tốt đẹp nhất.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
tìm hiểu phong tục thờ cúng của người việt ứng dụng trong cuộc sống và kinh doanh: phần 2
vào đất. Sau khi đặt thi thể người chết vào quan tài, phủ đất kín. Đậy nắp quan tài
cũng phải coi giờ tốt. Dùng dây mây hoặc tre dài làm dây néo ô hai đầu quan tài
thật chắc hơi trong quan tài mạnh có thể làm bật nắp quan tài. Quan tài đặt trên hai
ghế ngắn để cho vững chắc. Chân ghế có cột vải tẩm dầu hỏa để phòng ngừa kiến
leo lên. Dưới quan tài đặt một đĩa đèn dầu phụng thắp sáng ngày đêm, mục địch
hơi dầu phụng thơm, xông lên đánh tan mùi tử khí. Vì vậy, lúc bốc mộ dùng dầu
phụng bôi vào mũi tay chân tránh được mùi xú uế, mùi tử khí. Các thứ dầu nhị thiên
đường, dầu thêm đến mức nào cũng không ngăn được loại mùi chết đó!... Ngoài
hòm trang trí các hoa văn, cánh sen hoặc sơn phết cho đẹp, còn phủ lên trên hòm
vải trắng có “đăng tên”, bấy giờ hòm gọi là linh cữu. Trước linh cữu có bàn soạn
thiết trí linh vị có ảnh, chúng ta thường gọi là linh sàn. Trước linh sàn, đôi khi có nhà
đặt bàn Phật, có nhà lập bàn Phật xây qua hướng khác.
Người chết là nam, tổng số chữ viết trên triện chia cho 4, còn lẻ ba (quỹ, khóc,
linh). Người chết là nữ, chữ trên triện chia cho 4 là chẵn (quỹ, khóc, linh, thính). Viết
xong treo trước quan tài. Không có lá triện là “ma chết không triện” nên phải có.
Đám ma ỏ làng, nhà giàu thường mời thầy chùa, thầy pháp, nếu không, nhờ
khuông hội Phật giáo làng cúng kiến tụng kinh. Chương trình tang lễ được đặt ra tùy
theo xem được ngày giờ chôn cất. Nếu không coi ngày giờ, nội trong ba ngày là
phải chôn cất: “Tam nhật nội chi nội bất khán lịch nhật”. Người chết gặp lúc cận Tết
phải chôn cất vào ngày 30 tháng Chạp, không được để sang năm mới.
Sau khi khâm liệm xong, trang hoàng nhà cửa tươm tất rồi làm lễ thành thục.
Lễ thành thục là lễ chịu tang, con cháu nội ngoại, dâu, rễ, chắt chiu họp lại bịt khăn
tang. Ai cũng dùng sắc phục màu trắng, riêng chắt nội mặc áo và bịt khăn màu đỏ,
chắt ngoại mặc áo và bịt khăn màu vàng.
Lễ thành phục xong, con trai, cháu nội đích tôn đội mũ rơm, chống gậy tre nếu
ông nội hoặc cha mất, gậy vông nếu bà nội hoặc mẹ mất. Phụ nữ là con, vỢ, dâu
trùm vải lên đầu gọi là mũ mấn. Ngồi quanh bên quan tài không được lớn tiếng và
ngồi ăn uống với khách đến viếng thăm, chỉ được phép đứng. Trước lúc làm lễ
thành phục phải có cau trầu rượu thưa chuyện và mời một vị làm chấp lệnh nội
thường là các vị trưỏng Họ, Phái. Nếu gia đình neo đơn phải mượn người lớn tuổi
quen biết, ông chấp lệnh là người điều hành tang lễ trong suốt thời gian tang chế.
Mọi người trong hàng tang chủ phải tuyệt đối chấp hành, trình bày với “quan” chấp
lệnh vì “tang gia bối rối” nên không sáng suốt để điều hành công việc. Tập quán
làng hễ có người qua đời, việc dầu tiên là đến thăm hỏi, sau dó ngày khác phúng
điếu. Lễ vật cúng điếu là hương và tiền. Đây là nghĩa vụ của người dân hương thôn
gọi là “thù tạc vãng lai”. Nếu là sui gia, họ, phái, tổ chức tập thể phải có thêm mâm
cau trầu rượu. Lệnh kiểng để làm lễ có phân loại:
- Ba hồi lệnh và ba dùi tiếng dành cho các đơn vị lớn hơn như Làng, Họ, Phái,
242
Xóm .
- Một hồi lệnh và ba dùi tiếng dành cho thông gia hoặc ai có mârh cau trầu
rượu.
- Ba dùi tiếng là tình làng nghĩa xóm.
Nghe tiếng lệnh là phân biệt được ai đang phúng điếu.
Trước ngày đưa đám có lễ cúng như: Yết cáo từ đường là trình với tổ tiên ngày
mai đến ỏ chỗ mới, triêu điện là lễ buổi sáng, tịch điện là lễ buổi tối. Đêm trước
ngày mai đưa linh cữu về nơi an nghỉ cuối cùng có lễ nhiễu quan. Lễ nhiễu quan là
lễ đi quanh hòm, để tỏ sự luyến tiếc lần cuối đối với người chết.
Lễ cáo đạo lộ là lễ trình xin đường với thẩn giữ đường ngày mai đưa đám, đặt
bàn có hương hoa và cáo ỏ đường lộ gần nhà lễ này cáo ban đêm, chủ lễ là người
không bịt khăn tang. Sáng ngày di quan có lễ khiển điện và lễ triệt linh sàng.
Âm công
Trước vài ngày, tang quyền lên danh sách mời một số trỢ tang để đưa linh cữu
ra đồng (nghĩa trang). Bộ phận trỢ tang này gồm rất nhiều người:
1 “quan” Chấp lệnh ngoại.
1 “quan” Quản áp (cai giang).
1 ông giàn đổ thứ (người phân công việc).
4 vị đầu roi.
50 âm công.
Nếu có nhiều trướng liễn, lẵng hoa, vòng hoa... phúng điếu, số người tăng lên,
tổng cộng gần cả trăm người. Những vị này có thể nhờ những người trong họ, phái
và bà con xóm giềng. Lệ làng không nhận thù lao. Thông thường tang quyền dù
giàu hay nghèo đểu có tổ chức ăn uống. Có thể dùng bữa trước khi di quan hoặc
sau khi chôn cất xong. Sau khi chôn cất xong, về nhà làm lễ “phản khóc” là công
việc đã xong, có thể ăn uống giải lao.
Giàn đám
Trước một ngày đưa đám, mọi người tập trung làm mọi công việc. Cánh đàn
ông đi khuân vác giàn đám về kết. Giàn đám làm bằng gỗ tốt, có hai đòn bông to
dài, đà chịu lực, nhiều xà và một khung gỗ hình chữ nhật, trang hoàng lộng lẫy để
che quan tài. Quan tài được đặt bàn chính giữa bàn đám, chung quanh gồm 8 hoặc
10 bụp chỗ âm công gánh. Người trước cách người sau nửa bước chân, nên khi
gánh đám không thể đi nhanh vì sỢ vấp chân người trước. Vì vậy phải đi chậm rãi ...