TÌM HIỂU VỀ TIỀN TỆ
Số trang: 31
Loại file: doc
Dung lượng: 311.00 KB
Lượt xem: 27
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tiền tệ chính là phương tiện lưu thông của cải, được xem như là «máy tính» giá-trị các dịch vụ trao đổi giữa con người với nhau. Nó cũng là «chuẩn mực chung» để có thể so sánh giá trị của các hang hoá và dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (thí dụ như tiền kim loại hay tiền giấy) hoặc dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán, được một cộng đồng công...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÌM HIỂU VỀ TIỀN TỆ TÌM HIỂU VỀ TIỀN TỆ 1 CÂU HỎI SỐ 2 Tìm hiểu về tiền tệ và lịch sử tiền tệ của một số nước trên thế giới PHẦN A:LỊCH SỬ TIỀN TỆ T iền tệ chính là phương tiện lưu thông của cải, được xem như là «máy tính» giá-trị các dịch vụ trao đổi giữa con người với nhau. Nó cũng là «chuẩn mực chung» để có thể so sánh giá trị của các hang hoá và dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (thí dụ như tiền kim loại hay tiền giấy) hoặc dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán, được một cộng đồng công nhận, tại một vùng phổ biến nhất định. Trong Việt-Nam Từ-Điển của Lê Văn Đức cùng Nhóm Văn Hữu biên soạn có đưa ra một định-nghĩa về tiền-tệ: «Tiền là tiếng gọi chung các thứ tiền lưu thông trong một quốc gia đã được pháp luật qui định». Tuy nhiên, ta cũng có thể nói cách khác, để được rõ ràng và chặt chẽ hơn là: «Tiền» chỉ là những gì mà pháp luật bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán. Theo đó, trong kinh tế học, có một số khái niệm về tiền như sau: + Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại mà các người thủ đắc, hoặc cất giữ ở tư gia hay mang theo trong người để thanh toán các dịch vụ hàng ngày của họ. + Tiền gởi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân đem gởi vào ngân hàng thương mại, nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng đến tiền mặt. Chúng có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt. + Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ. Như vậy, tiền đã được hình thành như là phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hoá công việc thương mại. Nếu lúc trước, tiền thường được gắn liền với các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị, thí dụ như đồng tiền bằng vàng, bằng bạc, thì tiền ngày nay, thong thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền giấy). Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày xưa, vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền. Nhưng ngày nay, việc nầy không còn thong dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hang hoá mà người ta có thể mua sắm được. 2 Trong mịt mùng lịch sử, các nhà khảo cổ đều đồng ý rằng: những người sơ khai đã biết thực hiện việc đổi chác. Họ trao đổi hang hoá với nhau, để điều hoà nhu cầu đơn giản của đời sống họ. Vấn đề đổi chác là phương cách duy nhất của thương mại vào thời kỳ ấy. Chẳng hạn, một ngư dân đem con cá mới bắt được ở ven sông đổi lấy con chim do bác thợ săn vừa bắn được trong rừng núi. Hoặc người chăn nuôi đem một con lợn đổi cho kẻ làm ruộng rẫy để lấy mấy thúng khoai hay vài giạ lúa. Nhưng với cách thức trao đổi này thì quả thực là bất tiện. Những con vật khi di chuyển thì khó khăn, chúng lại dễ mắc bệnh hoạn. Do đó, người ta đã bắt đầu dùng những vật thể có tính cách «đại-diện» như vỏ sò, lông chim, mẩu xương đặc biệt, đá quí, muối…và về sau, lại còn dùng những thỏi sắt hay dụng cụ bằng kim loại để làm đơn vị tính toán hang hoá. Đó là tiền thân của tiền tệ sau này. Thời ấy, dù những vật liệu đó tự nó có một giá trị nhất định, nhưng hành động thừa nhận chúng là đại biểu của giá trị hang hoá đã là một bước tiến vượt bực trong quan hệ giữa người với người, nói lên khả năng trừu tượng của con người. 1. TIỀN VỎ ỐC Qua những di chỉ khảo cổ, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã thống nhất ý kiến cho rằng loại tiền được sử dụng sớm nhất của loài người, chính là Tiền Vỏ Ốc và xã hội dùng tiền sớm nhất chính là xã hội nô lệ. Nhưng tại sao lại dùng Vỏ ốc làm tiền? Ngày nay, chúng ta thấy khó có thể tin được, vì nghĩ rằng vỏ ốc rất nhiều. Nếu dùng vỏ ốc làm tiền thì bất cứ ai cũng có thể kiếm được, như vậy tiền ấy còn có giá trị gì nữa! Nhưng trên thực tế, ở vào thời kỳ thái cổ ấy, con người đang ở trong tình trạng hoang sơ, lẻ loi, cách biệt. Họ sống tập hợp thành những bộ tộc xa hẳn nhau. Không có phương tiện gì để giao thông liên lạc. Hàng hoá vận chuyển rất khó khăn. Đối với những bộ tộc sống xa bờ biển, thì việc kiếm được vỏ ốc không phải dễ dàng gì. Trong khi đó, họ lại rất trân quý vỏ ốc, vì là thứ trang sức đầu tiên của con người. Có thể nói đây là một loại xa xỉ phẩm. Do đó, người ta đồng thuận dùng các đồ trang sức bằng vỏ ốc đổi lấy các loại hang hoá khác. Một đặc điểm thuận lợi của vỏ ốc là được xâu thành những vòng chuỗi trang sức để đeo vào cổ hay ở chân tay. Khi trao đổi, tùy theo giá trị cao thấp của món hàng mà người ta có thể thêm hay bớt vỏ ốc để thành những vòng chuỗi lớn hơn hoặc nhỏ lại. Ốc dùng để làm tiền này có tới hơn 150 loại, sống ở miền nước nông Ấn độ dương và Thái bình dương. Dân mỗi vùng thường quen dùng một loại riêng: Thổ dân ở Alaska và California bên châu Mỹ dùng loại Dentilium Pretiosum. Các bộ lạc ở Úc châu dùng nhiều loại khác nhau. Còn ở Á châu thường dùng loại ốc Cypraea annulus, nhưng đặc biệt thong dụng nhất là loại ốc Cauri mà danh từ khoa học gọi là Cypraea moneta. Loại ốc này được tìm thấy ở các hải đảo Maldives và Soulou . Danh từ Cauri do tiếng Phạn (Sanskrit) là Kauri. Tiếng Pháp gọi là Cauris, tiếng Anh là Cowrie hay Cowry, tiếng Nhật là Koyasugai (từ an bối)(bối = ốc). Vì nó được dùng làm tiền nên còn gọi là hoá bối (ốc tiền). Ốc tiền được người Trung hoa sử dụng để làm tiền (dụng bối xác tác hoá tệ) kể từ đời nhà Hạ (2205-1766) TCN, mãi cho đến triều đại nhà Tần (221-206) TCN, tức là gần hai ngàn năm sau, ốc tiền nầy mới bị cấm chỉ, không cho dân chúng dùng để làm tiền tệ nữa. Tại Việt nam, từ năm 2879 TCN, thuở ấy đất nước ta còn gọi là Văn lang với 18 đời 3 Hùng vương, rồi qua ba lần bị Bắc thuộc cho tới đời nhà Đinh (968-980), chưa thấy sử sách nào chép về việc người dân Việt bắt đầu sử dụng tiền từ bao giờ và loại tiền gì. Tuy nhiê ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÌM HIỂU VỀ TIỀN TỆ TÌM HIỂU VỀ TIỀN TỆ 1 CÂU HỎI SỐ 2 Tìm hiểu về tiền tệ và lịch sử tiền tệ của một số nước trên thế giới PHẦN A:LỊCH SỬ TIỀN TỆ T iền tệ chính là phương tiện lưu thông của cải, được xem như là «máy tính» giá-trị các dịch vụ trao đổi giữa con người với nhau. Nó cũng là «chuẩn mực chung» để có thể so sánh giá trị của các hang hoá và dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (thí dụ như tiền kim loại hay tiền giấy) hoặc dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán, được một cộng đồng công nhận, tại một vùng phổ biến nhất định. Trong Việt-Nam Từ-Điển của Lê Văn Đức cùng Nhóm Văn Hữu biên soạn có đưa ra một định-nghĩa về tiền-tệ: «Tiền là tiếng gọi chung các thứ tiền lưu thông trong một quốc gia đã được pháp luật qui định». Tuy nhiên, ta cũng có thể nói cách khác, để được rõ ràng và chặt chẽ hơn là: «Tiền» chỉ là những gì mà pháp luật bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán. Theo đó, trong kinh tế học, có một số khái niệm về tiền như sau: + Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại mà các người thủ đắc, hoặc cất giữ ở tư gia hay mang theo trong người để thanh toán các dịch vụ hàng ngày của họ. + Tiền gởi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân đem gởi vào ngân hàng thương mại, nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng đến tiền mặt. Chúng có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt. + Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ. Như vậy, tiền đã được hình thành như là phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hoá công việc thương mại. Nếu lúc trước, tiền thường được gắn liền với các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị, thí dụ như đồng tiền bằng vàng, bằng bạc, thì tiền ngày nay, thong thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền giấy). Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày xưa, vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền. Nhưng ngày nay, việc nầy không còn thong dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hang hoá mà người ta có thể mua sắm được. 2 Trong mịt mùng lịch sử, các nhà khảo cổ đều đồng ý rằng: những người sơ khai đã biết thực hiện việc đổi chác. Họ trao đổi hang hoá với nhau, để điều hoà nhu cầu đơn giản của đời sống họ. Vấn đề đổi chác là phương cách duy nhất của thương mại vào thời kỳ ấy. Chẳng hạn, một ngư dân đem con cá mới bắt được ở ven sông đổi lấy con chim do bác thợ săn vừa bắn được trong rừng núi. Hoặc người chăn nuôi đem một con lợn đổi cho kẻ làm ruộng rẫy để lấy mấy thúng khoai hay vài giạ lúa. Nhưng với cách thức trao đổi này thì quả thực là bất tiện. Những con vật khi di chuyển thì khó khăn, chúng lại dễ mắc bệnh hoạn. Do đó, người ta đã bắt đầu dùng những vật thể có tính cách «đại-diện» như vỏ sò, lông chim, mẩu xương đặc biệt, đá quí, muối…và về sau, lại còn dùng những thỏi sắt hay dụng cụ bằng kim loại để làm đơn vị tính toán hang hoá. Đó là tiền thân của tiền tệ sau này. Thời ấy, dù những vật liệu đó tự nó có một giá trị nhất định, nhưng hành động thừa nhận chúng là đại biểu của giá trị hang hoá đã là một bước tiến vượt bực trong quan hệ giữa người với người, nói lên khả năng trừu tượng của con người. 1. TIỀN VỎ ỐC Qua những di chỉ khảo cổ, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã thống nhất ý kiến cho rằng loại tiền được sử dụng sớm nhất của loài người, chính là Tiền Vỏ Ốc và xã hội dùng tiền sớm nhất chính là xã hội nô lệ. Nhưng tại sao lại dùng Vỏ ốc làm tiền? Ngày nay, chúng ta thấy khó có thể tin được, vì nghĩ rằng vỏ ốc rất nhiều. Nếu dùng vỏ ốc làm tiền thì bất cứ ai cũng có thể kiếm được, như vậy tiền ấy còn có giá trị gì nữa! Nhưng trên thực tế, ở vào thời kỳ thái cổ ấy, con người đang ở trong tình trạng hoang sơ, lẻ loi, cách biệt. Họ sống tập hợp thành những bộ tộc xa hẳn nhau. Không có phương tiện gì để giao thông liên lạc. Hàng hoá vận chuyển rất khó khăn. Đối với những bộ tộc sống xa bờ biển, thì việc kiếm được vỏ ốc không phải dễ dàng gì. Trong khi đó, họ lại rất trân quý vỏ ốc, vì là thứ trang sức đầu tiên của con người. Có thể nói đây là một loại xa xỉ phẩm. Do đó, người ta đồng thuận dùng các đồ trang sức bằng vỏ ốc đổi lấy các loại hang hoá khác. Một đặc điểm thuận lợi của vỏ ốc là được xâu thành những vòng chuỗi trang sức để đeo vào cổ hay ở chân tay. Khi trao đổi, tùy theo giá trị cao thấp của món hàng mà người ta có thể thêm hay bớt vỏ ốc để thành những vòng chuỗi lớn hơn hoặc nhỏ lại. Ốc dùng để làm tiền này có tới hơn 150 loại, sống ở miền nước nông Ấn độ dương và Thái bình dương. Dân mỗi vùng thường quen dùng một loại riêng: Thổ dân ở Alaska và California bên châu Mỹ dùng loại Dentilium Pretiosum. Các bộ lạc ở Úc châu dùng nhiều loại khác nhau. Còn ở Á châu thường dùng loại ốc Cypraea annulus, nhưng đặc biệt thong dụng nhất là loại ốc Cauri mà danh từ khoa học gọi là Cypraea moneta. Loại ốc này được tìm thấy ở các hải đảo Maldives và Soulou . Danh từ Cauri do tiếng Phạn (Sanskrit) là Kauri. Tiếng Pháp gọi là Cauris, tiếng Anh là Cowrie hay Cowry, tiếng Nhật là Koyasugai (từ an bối)(bối = ốc). Vì nó được dùng làm tiền nên còn gọi là hoá bối (ốc tiền). Ốc tiền được người Trung hoa sử dụng để làm tiền (dụng bối xác tác hoá tệ) kể từ đời nhà Hạ (2205-1766) TCN, mãi cho đến triều đại nhà Tần (221-206) TCN, tức là gần hai ngàn năm sau, ốc tiền nầy mới bị cấm chỉ, không cho dân chúng dùng để làm tiền tệ nữa. Tại Việt nam, từ năm 2879 TCN, thuở ấy đất nước ta còn gọi là Văn lang với 18 đời 3 Hùng vương, rồi qua ba lần bị Bắc thuộc cho tới đời nhà Đinh (968-980), chưa thấy sử sách nào chép về việc người dân Việt bắt đầu sử dụng tiền từ bao giờ và loại tiền gì. Tuy nhiê ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chính sách tiền tệ thị trường tiền tệ tài liệu tiền tệ tín dụng tiền tệ thảo luận về tiền tệ thị trường tiền tệ Việt Nam thị trường vốn thị trường liên ngân hàng lịch sử tiền tệGợi ý tài liệu liên quan:
-
293 trang 286 0 0
-
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 1: Phần 1 - ĐH Thương mại
194 trang 268 0 0 -
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 266 0 0 -
38 trang 234 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 233 1 0 -
Một số vấn đề về lời nguyền tiền mặt: Phần 2
118 trang 228 0 0 -
Đề cương chi tiết học phần Tiền tệ và ngân hàng (Money and Banking)
4 trang 203 0 0 -
Bài giảng học Lý thuyết tài chính- tiền tệ
54 trang 174 0 0 -
Tiểu luận kinh tế vĩ mô: Lạm phát
49 trang 159 0 0 -
Giáo trình Kinh tế vĩ mô: Phần 2 - Đại học Nội vụ Hà Nội
63 trang 153 0 0