Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 123.76 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật thuỷ sản tại Việt Nam Theo kinh nghiệm dân gian, có khá nhiều loại cây thuốc nam, thảo mộc đã và đang được sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản như lá xoan, tỏi, cây chó đẻ răng cưa, hạt cau, hạt bí ngô…..
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật thuỷ sản tại Việt NamTheo kinh nghiệm dân gian, có khá nhiều loại cây thuốcnam, thảo mộc đã và đang được sử dụng trong nuôi trồngthuỷ sản như lá xoan, tỏi, cây chó đẻ răng cưa, hạt cau, hạtbí ngô….. Mỗi một loại có tác dụng khác nhau trong việcphòng và trị bệnh, một số cây có ưu thế trong việc phòng trịbệnh do tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng và một số câycó ưu thế phòng trị bệnh nhiễm khuẩn.Hợp chất có trong thảo dược rất phong phú, chúng đượcchia thành các nhóm trong đó bao gồm kháng sinh thực vật(phytocide) có tác dụng diệt khuẩn cũng như hạn chế sựsinh trưởng của các loại vi khuẩn[6].Trong báo cáo ” Sử dụng kháng sinh thảo mộc phòng vàchữa trị một số bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi động vật thuỷsản ”, Nguyễn Thị Vân Thái và ctv đã trình bày về khảnăng sử dụng y dược y học cổ truyền trong phòng và chữatrị một số bệnh nhiễm khuẩn cho tôm cá, động vật thânmềm… thay thế các thuốc kháng sinh hiện đang phổ biếntrên thị trường. Các tác giả đã đưa ra phương pháp phòngbệnh bằng thức ăn bổ trợ có tác dụng tăng cường sức đềkháng của động vật thuỷ sản [9].Trong một nghiên cứu vào năm 2006, Nguyễn Viết Khuêvà ctv cho thấy trong số những người được phỏng vấn có41,33% người nuôi sử dụng thảo dược, phổ biến là tỏi và láxoan, 15% dùng không hiệu quả, 85% đạt hiệu quả từ ít đếnnhiều.Việc nghiên cứu thành phần các hợp chất có trong thảomộc là cơ sở nghiên cứu cho ra các sản phẩm thuốc ứngdụng phòng trị bệnh động vật thuỷ sản nói riêng.Thuốc KN-04-12 là sản phẩm phối chế của đề tài cấp nhànước mã số KN-04-12 năm 1990-1995. Thành phần thuốcbao gồm các cây thuốc có kháng sinh thực vật (tỏi, sài đất,nhọ nội, cỏ sữa, chó đẻ răng cưa….), vitamin và một số vilượng khác. Thuốc được nghiền thành bột, có mùi đặctrưng của tỏi. Thuốc có tác dụng phòng và trị bệnh nhiễmkhuẩn như đốm đỏ, thối mang, viêm ruột của cá nuôi lồnghoặc nuôi ao. Bên cạnh đó một số tác giả cho rằng khi cácó dấu hiệu ban đầu của bệnh nhiễm khuẩn có thể trị bằngcách cho tỏi (0.5 kg tỏi/100 kg cá) và bổ sung 0,3% muốiăn trong thức ăn viên cho cá ăn, hiệu quả đạt được rất tốt(Võ Thị Cúc Hoa và Thái Bá Hồ (1980).[5]Một sản phẩm khác có tên VTS1 - C và VTS1 - T là sảnphẩm thảo dược phối chế từ các hoạt chất tách chiết từ tỏi(Allium sativum), sài đất (Weledia calendulacea), nhọ nồi(Elista alba Hassk) để phòng trị bệnh cho Tôm sú và cá Tranuôi ao và nuôi lồng để phòng trị một số bệnh do vi khuẩnAeromonas hydrophyla, Edwardsiella tarda, Hafnia alvei,Vibrio harveyi, V. alginolyticus.Thuốc BecaNor 1 và BecaNor 2 là 2 sản phẩm với thànhphân chính là tỏi và gừng bước đầu đã có hiệu quả rất tốttrong việc phòng và trị bệnh đốm đỏ ở qui mô phòng thínghiệm, sản phẩm được ra đời do sự nỗ lực trong việcnghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh lở loét trên cá trắmcỏ của CEDMA đồng thời với sự tài trợ của dự ánNORAD. Năm 2006 đã tiến hành thử nghiệm ngoài thựcđịa 2 loại dược thảo BecaNor TD1 và BecaNor TD 2 tại 3tỉnh Quảng Ninh, Nam Định, Hà Giang phòng bệnh cho cátrắm cỏ, hàng tháng cho cá ăn dược thảo với liều lượng 7g/kg thức ăn. Kết quả thu được cho thấy tại 2 tỉnh QuảngNinh và Nam Định, cá trắm cỏ cho ăn thuốc phòng đãkhông nhiễm bệnh trong khi đó ở các lô đối chứng vẫn cóhiện tượng cá chết do nhiễm bệnh vi khuẩn. Tại tỉnh HàGiang, tỷ lệ chết giảm từ 100% xuống còn 40% khi cho cáăn thuốc phòng ( Nguyễn Thị Hà và ctv, 2006 ) [2]. Tuynhiên, việc thử nghiệm chưa được thực hiện trên diện rộngnên chưa khẳng định được hiệu quả của các dược thảo nàyđồng thời chưa được áp dụng rộng rãi (Phạm Văn Thư,2006) [12].Năm 2007, Nguyễn Ngọc Phước và ctv đã tiến hành nghiêncứu sử dụng lá trầu không để trị bệnh do nấm, vi khuẩn gâyra trên đối tượng nuôi động vật thuỷ sản. Bước đầu đã cókết quả tốt ở quy mô phòng thí nghiệm [7].Gần đây nhất (2008), Trương Thị Mỹ Hạnh và ctv đãnghiên cứu khả năng kháng khuẩn của dịch triết lá trầu vàcũng đạt được những kết quả nhất định.Tuy nhiên đó mớichỉ là những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm [3]Như vậy, ở Việt Nam cũng tồn tại những vấn đề cần giảiquyết mà tình hình chung của thế giới đang yêu cầu. Trongđó, điều mà đề tài này rất quan tâm là chưa có thuốc thảodược cho cá Rô phi được công bố. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật thuỷ sản tại Việt NamTheo kinh nghiệm dân gian, có khá nhiều loại cây thuốcnam, thảo mộc đã và đang được sử dụng trong nuôi trồngthuỷ sản như lá xoan, tỏi, cây chó đẻ răng cưa, hạt cau, hạtbí ngô….. Mỗi một loại có tác dụng khác nhau trong việcphòng và trị bệnh, một số cây có ưu thế trong việc phòng trịbệnh do tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng và một số câycó ưu thế phòng trị bệnh nhiễm khuẩn.Hợp chất có trong thảo dược rất phong phú, chúng đượcchia thành các nhóm trong đó bao gồm kháng sinh thực vật(phytocide) có tác dụng diệt khuẩn cũng như hạn chế sựsinh trưởng của các loại vi khuẩn[6].Trong báo cáo ” Sử dụng kháng sinh thảo mộc phòng vàchữa trị một số bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi động vật thuỷsản ”, Nguyễn Thị Vân Thái và ctv đã trình bày về khảnăng sử dụng y dược y học cổ truyền trong phòng và chữatrị một số bệnh nhiễm khuẩn cho tôm cá, động vật thânmềm… thay thế các thuốc kháng sinh hiện đang phổ biếntrên thị trường. Các tác giả đã đưa ra phương pháp phòngbệnh bằng thức ăn bổ trợ có tác dụng tăng cường sức đềkháng của động vật thuỷ sản [9].Trong một nghiên cứu vào năm 2006, Nguyễn Viết Khuêvà ctv cho thấy trong số những người được phỏng vấn có41,33% người nuôi sử dụng thảo dược, phổ biến là tỏi và láxoan, 15% dùng không hiệu quả, 85% đạt hiệu quả từ ít đếnnhiều.Việc nghiên cứu thành phần các hợp chất có trong thảomộc là cơ sở nghiên cứu cho ra các sản phẩm thuốc ứngdụng phòng trị bệnh động vật thuỷ sản nói riêng.Thuốc KN-04-12 là sản phẩm phối chế của đề tài cấp nhànước mã số KN-04-12 năm 1990-1995. Thành phần thuốcbao gồm các cây thuốc có kháng sinh thực vật (tỏi, sài đất,nhọ nội, cỏ sữa, chó đẻ răng cưa….), vitamin và một số vilượng khác. Thuốc được nghiền thành bột, có mùi đặctrưng của tỏi. Thuốc có tác dụng phòng và trị bệnh nhiễmkhuẩn như đốm đỏ, thối mang, viêm ruột của cá nuôi lồnghoặc nuôi ao. Bên cạnh đó một số tác giả cho rằng khi cácó dấu hiệu ban đầu của bệnh nhiễm khuẩn có thể trị bằngcách cho tỏi (0.5 kg tỏi/100 kg cá) và bổ sung 0,3% muốiăn trong thức ăn viên cho cá ăn, hiệu quả đạt được rất tốt(Võ Thị Cúc Hoa và Thái Bá Hồ (1980).[5]Một sản phẩm khác có tên VTS1 - C và VTS1 - T là sảnphẩm thảo dược phối chế từ các hoạt chất tách chiết từ tỏi(Allium sativum), sài đất (Weledia calendulacea), nhọ nồi(Elista alba Hassk) để phòng trị bệnh cho Tôm sú và cá Tranuôi ao và nuôi lồng để phòng trị một số bệnh do vi khuẩnAeromonas hydrophyla, Edwardsiella tarda, Hafnia alvei,Vibrio harveyi, V. alginolyticus.Thuốc BecaNor 1 và BecaNor 2 là 2 sản phẩm với thànhphân chính là tỏi và gừng bước đầu đã có hiệu quả rất tốttrong việc phòng và trị bệnh đốm đỏ ở qui mô phòng thínghiệm, sản phẩm được ra đời do sự nỗ lực trong việcnghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh lở loét trên cá trắmcỏ của CEDMA đồng thời với sự tài trợ của dự ánNORAD. Năm 2006 đã tiến hành thử nghiệm ngoài thựcđịa 2 loại dược thảo BecaNor TD1 và BecaNor TD 2 tại 3tỉnh Quảng Ninh, Nam Định, Hà Giang phòng bệnh cho cátrắm cỏ, hàng tháng cho cá ăn dược thảo với liều lượng 7g/kg thức ăn. Kết quả thu được cho thấy tại 2 tỉnh QuảngNinh và Nam Định, cá trắm cỏ cho ăn thuốc phòng đãkhông nhiễm bệnh trong khi đó ở các lô đối chứng vẫn cóhiện tượng cá chết do nhiễm bệnh vi khuẩn. Tại tỉnh HàGiang, tỷ lệ chết giảm từ 100% xuống còn 40% khi cho cáăn thuốc phòng ( Nguyễn Thị Hà và ctv, 2006 ) [2]. Tuynhiên, việc thử nghiệm chưa được thực hiện trên diện rộngnên chưa khẳng định được hiệu quả của các dược thảo nàyđồng thời chưa được áp dụng rộng rãi (Phạm Văn Thư,2006) [12].Năm 2007, Nguyễn Ngọc Phước và ctv đã tiến hành nghiêncứu sử dụng lá trầu không để trị bệnh do nấm, vi khuẩn gâyra trên đối tượng nuôi động vật thuỷ sản. Bước đầu đã cókết quả tốt ở quy mô phòng thí nghiệm [7].Gần đây nhất (2008), Trương Thị Mỹ Hạnh và ctv đãnghiên cứu khả năng kháng khuẩn của dịch triết lá trầu vàcũng đạt được những kết quả nhất định.Tuy nhiên đó mớichỉ là những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm [3]Như vậy, ở Việt Nam cũng tồn tại những vấn đề cần giảiquyết mà tình hình chung của thế giới đang yêu cầu. Trongđó, điều mà đề tài này rất quan tâm là chưa có thuốc thảodược cho cá Rô phi được công bố. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
nuôi trồng thủy sản bệnh trên cá rô phi bệnh do vi khuẩn bệnh trên cá hợp chất chiết xuất từ thảo dượcGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 341 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 222 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 220 0 0 -
225 trang 214 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 189 0 0 -
13 trang 180 0 0
-
2 trang 179 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 177 0 0 -
91 trang 171 0 0
-
8 trang 151 0 0