Tỉnh táo trước lời đường mật về fluor Thỉnh thoảng trên các phương tiện
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 133.69 KB
Lượt xem: 4
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tỉnh táo trước lời đường mật về fluorThỉnh thoảng trên các phương tiện truyền thông, người ta nghe thấy những quảng cáo về các chế phẩm có chứa fluor với những thông điệp thế này: sử dụng thường xuyên fluor giúp răng chắc khoẻ; thiếu fluor dẫn đến những bệnh lý răng miệng, xương khớp nguy hiểm…Tuy chưa có thống kê nhưng qua các câu hỏi tư vấn sức khoẻ, dễ dàng nhận thấy có nhiều người đã và đang ngộ nhận về công dụng của fluor.Hằng ngày cơ thể cần rất ít fluor Với mong muốn con mình có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tỉnh táo trước lời đường mật về fluor Thỉnh thoảng trên các phương tiện Tỉnh táo trước lời đường mật về fluor Thỉnh thoảng trên các phương tiện truyền thông, người ta nghe thấynhững quảng cáo về các chế phẩm có chứa fluor với những thông điệp thếnày: sử dụng thường xuyên fluor giúp răng chắc khoẻ; thiếu fluor dẫn đếnnhững bệnh lý răng miệng, xương khớp nguy hiểm… Tuy chưa có thống kê nhưng qua các câu hỏi tư vấn sức khoẻ, dễ dàng nhậnthấy có nhiều người đã và đang ngộ nhận về công dụng của fluor. Hằng ngày cơ thể cần rất ít fluor Với mong muốn con mình có hai hàm răng trắng bóng, đều như bắp, chắckhoẻ đã thôi thúc không ít phụ huynh tìm mua các chế phẩm chứa fluor cho trẻdùng thường xuyên, như: kem đánh răng, nước súc miệng, kẹo chewing-gum hoặccác thực phẩm có bổ sung fluor (fluoride supplements). Chế phẩm chứa c àngnhiều fluor càng được ưu tiên lựa chọn. Ngay trong nhiều mẫu quảng cáo, cũngđánh vào tâm lý này bằng những câu nhấn nhá làm đậm hàm lượng và công dụngcủa fluor có trong sản phẩm. Đúng là fluor có chức năng tham gia vào quá trình phát triển răng, tạo ngàrăng và men răng, giúp răng bền vững hơn trước các tác nhân gây bệnh sâu răng.Tuy nhiên, có phải dùng nhiều fluor là tốt? Hàng ngày, cơ thể chúng ta phải được cung cấp đủ năm nhóm chất dinhdưỡng qua thức ăn, thức uống: chất đạm, chất bột đường, chất béo, vitamin và chấtkhoáng. Fluor chính là chất dinh dưỡng nằm trong nhóm chất khoáng và là chấtkhoáng vi lượng, với ký hiệu hoá học là F. Gọi là vi lượng vì hàng ngày cơ thể tacần rất ít fluor. Lượng cung cấp qua thức ăn thức uống của fluor tính bằngmiligram (mg), như trẻ từ 1 – 3 tuổi cần 0,7mg/ngày, trẻ từ 4 – 8 tuổi cần1,0mg/ngày, trẻ từ 9 tuổi trở lên và người trưởng thành cần 2 – 4mg/ngày. Trongkhi các chất khoáng đại lượng cần cung cấp lại có lượng tính bằng gram (g), nhưcanxi. Thiếu hoặc thừa fluor đều hại Trong cơ thể, fluor tham gia vào quá trình phát triển răng, tạo ngà răng vàmen răng. Fluor cũng có vai trò quan trọng trong tạo xương bằng cách ảnh hưởngđến điều hoà chuyển hoá canxi và phôtpho. Khi thiếu fluor sẽ dẫn đến bệnh sâurăng và loãng xương. Việc phát hiện mối liên quan giữa thiếu fluor và bệnh sâurăng bắt nguồn từ thế kỷ thứ 19, khi người ta quan sát trong răng, đặc biệt ở ngà vàmen răng có chứa fluor. Năm 1902, một số nhà khoa học phát hiện dùng fluor cóthể khắc phục bệnh sâu răng vì lượng fluor ở những răng sâu (nhất là men răng)thấp hơn đáng kể so với bình thường. Cũng từ đây, người ta nhận thấy khi lượngfluor trong nước sinh hoạt thấp dưới 0,5mg/l sẽ xảy ra biểu hiện thiếu fluor,thường gặp là tình trạng sâu răng. Vai trò của fluor chống sâu răng chính là ở chỗnó giúp răng bền vững hơn với môi trường bên ngoài, như bền vững hơn trước tácdụng của các axit hữu cơ có trong thức ăn hoặc các axit này được tạo thành từđường ăn hàng ngày. Một đặc điểm quan trọng của Hai loại bệnh thừa fluor đượcfluor là giới hạn thích hợp của hoạt động nói đến nhiều hiện nay là bệnh nhiễmsinh học chất khoáng này hẹp. Tức là độc fluor ở răng và nhiễm độc fluor ởliều bổ sung thích hợp và liều gây độc xương. Nếu bổ sung fluor quá giới hạncủa fluor rất gần nhau. Thiếu hoặc thừa sẽ đưa đến thừa fluor và gây độc.fluor đều có hại cho cơ thể. Giới hạncho phép của fluor trong khẩu phần ăn là 2,4 – 4,8mg/kg thực phẩm (giới hạn nàycũng áp dụng đối với các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng) và trong nước ăn sinhhoạt hàng ngày là 1,2mg/l. Nếu bổ sung fluor quá giới hạn sẽ đưa đến thừa fluorvà gây độc. Một loại bệnh thừa fluor hiện nay được nói đến nhiều là bệnh “nhiễmđộc fluor ở răng” (dental fluorosis). Đây là bệnh xảy ra ở trẻ được bổ sung quánhiều fluor trong thời kỳ hình thành và phát triển răng vĩnh viễn. Lứa tuổi dễ bịmắc bệnh nhiễm độc fluor ở răng là từ 1 – 4 tuổi, quá 8 tuổi xem n hư không cónguy cơ. Loại bệnh nhiễm độc này thể hiện có vệt bẩn màu trắng hoặc vàng ở menrăng, kích thước vệt to dần và có thể tạo màu nâu. Trên men răng còn xuất hiệncác rãnh, bờ bị ăn mòn, răng trở nên dễ vỡ. Bệnh gây tổn thương các răng vĩnhviễn. Nếu bổ sung thừa fluor dài hạn còn có thể gây ra bệnh “nhiễm độc fluor ởxương” (skeletal fluorosis) làm cho xương y ếu, biến dạng, dễ gãy. Bệnh nhiễmđộc fluor ở xương còn gây triệu chứng kích thích ruột và đau nhức khớp, dễ chẩnđoán lầm bị bệnh viêm đa khớp dạng thấp. Như bất cứ chất dinh dưỡng nào, fluor được bổ sung hàng ngày với liềulượng vừa đủ là tốt nhất. Việc lạm dụng, cho dù với động cơ tốt, cũng đều tiềm ẩnnhững nguy hiểm cho sức khoẻ. Vì vậy, mọi người phải hết sức tỉnh táo trướcnhững lời đường mật của các chương trình q ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tỉnh táo trước lời đường mật về fluor Thỉnh thoảng trên các phương tiện Tỉnh táo trước lời đường mật về fluor Thỉnh thoảng trên các phương tiện truyền thông, người ta nghe thấynhững quảng cáo về các chế phẩm có chứa fluor với những thông điệp thếnày: sử dụng thường xuyên fluor giúp răng chắc khoẻ; thiếu fluor dẫn đếnnhững bệnh lý răng miệng, xương khớp nguy hiểm… Tuy chưa có thống kê nhưng qua các câu hỏi tư vấn sức khoẻ, dễ dàng nhậnthấy có nhiều người đã và đang ngộ nhận về công dụng của fluor. Hằng ngày cơ thể cần rất ít fluor Với mong muốn con mình có hai hàm răng trắng bóng, đều như bắp, chắckhoẻ đã thôi thúc không ít phụ huynh tìm mua các chế phẩm chứa fluor cho trẻdùng thường xuyên, như: kem đánh răng, nước súc miệng, kẹo chewing-gum hoặccác thực phẩm có bổ sung fluor (fluoride supplements). Chế phẩm chứa c àngnhiều fluor càng được ưu tiên lựa chọn. Ngay trong nhiều mẫu quảng cáo, cũngđánh vào tâm lý này bằng những câu nhấn nhá làm đậm hàm lượng và công dụngcủa fluor có trong sản phẩm. Đúng là fluor có chức năng tham gia vào quá trình phát triển răng, tạo ngàrăng và men răng, giúp răng bền vững hơn trước các tác nhân gây bệnh sâu răng.Tuy nhiên, có phải dùng nhiều fluor là tốt? Hàng ngày, cơ thể chúng ta phải được cung cấp đủ năm nhóm chất dinhdưỡng qua thức ăn, thức uống: chất đạm, chất bột đường, chất béo, vitamin và chấtkhoáng. Fluor chính là chất dinh dưỡng nằm trong nhóm chất khoáng và là chấtkhoáng vi lượng, với ký hiệu hoá học là F. Gọi là vi lượng vì hàng ngày cơ thể tacần rất ít fluor. Lượng cung cấp qua thức ăn thức uống của fluor tính bằngmiligram (mg), như trẻ từ 1 – 3 tuổi cần 0,7mg/ngày, trẻ từ 4 – 8 tuổi cần1,0mg/ngày, trẻ từ 9 tuổi trở lên và người trưởng thành cần 2 – 4mg/ngày. Trongkhi các chất khoáng đại lượng cần cung cấp lại có lượng tính bằng gram (g), nhưcanxi. Thiếu hoặc thừa fluor đều hại Trong cơ thể, fluor tham gia vào quá trình phát triển răng, tạo ngà răng vàmen răng. Fluor cũng có vai trò quan trọng trong tạo xương bằng cách ảnh hưởngđến điều hoà chuyển hoá canxi và phôtpho. Khi thiếu fluor sẽ dẫn đến bệnh sâurăng và loãng xương. Việc phát hiện mối liên quan giữa thiếu fluor và bệnh sâurăng bắt nguồn từ thế kỷ thứ 19, khi người ta quan sát trong răng, đặc biệt ở ngà vàmen răng có chứa fluor. Năm 1902, một số nhà khoa học phát hiện dùng fluor cóthể khắc phục bệnh sâu răng vì lượng fluor ở những răng sâu (nhất là men răng)thấp hơn đáng kể so với bình thường. Cũng từ đây, người ta nhận thấy khi lượngfluor trong nước sinh hoạt thấp dưới 0,5mg/l sẽ xảy ra biểu hiện thiếu fluor,thường gặp là tình trạng sâu răng. Vai trò của fluor chống sâu răng chính là ở chỗnó giúp răng bền vững hơn với môi trường bên ngoài, như bền vững hơn trước tácdụng của các axit hữu cơ có trong thức ăn hoặc các axit này được tạo thành từđường ăn hàng ngày. Một đặc điểm quan trọng của Hai loại bệnh thừa fluor đượcfluor là giới hạn thích hợp của hoạt động nói đến nhiều hiện nay là bệnh nhiễmsinh học chất khoáng này hẹp. Tức là độc fluor ở răng và nhiễm độc fluor ởliều bổ sung thích hợp và liều gây độc xương. Nếu bổ sung fluor quá giới hạncủa fluor rất gần nhau. Thiếu hoặc thừa sẽ đưa đến thừa fluor và gây độc.fluor đều có hại cho cơ thể. Giới hạncho phép của fluor trong khẩu phần ăn là 2,4 – 4,8mg/kg thực phẩm (giới hạn nàycũng áp dụng đối với các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng) và trong nước ăn sinhhoạt hàng ngày là 1,2mg/l. Nếu bổ sung fluor quá giới hạn sẽ đưa đến thừa fluorvà gây độc. Một loại bệnh thừa fluor hiện nay được nói đến nhiều là bệnh “nhiễmđộc fluor ở răng” (dental fluorosis). Đây là bệnh xảy ra ở trẻ được bổ sung quánhiều fluor trong thời kỳ hình thành và phát triển răng vĩnh viễn. Lứa tuổi dễ bịmắc bệnh nhiễm độc fluor ở răng là từ 1 – 4 tuổi, quá 8 tuổi xem n hư không cónguy cơ. Loại bệnh nhiễm độc này thể hiện có vệt bẩn màu trắng hoặc vàng ở menrăng, kích thước vệt to dần và có thể tạo màu nâu. Trên men răng còn xuất hiệncác rãnh, bờ bị ăn mòn, răng trở nên dễ vỡ. Bệnh gây tổn thương các răng vĩnhviễn. Nếu bổ sung thừa fluor dài hạn còn có thể gây ra bệnh “nhiễm độc fluor ởxương” (skeletal fluorosis) làm cho xương y ếu, biến dạng, dễ gãy. Bệnh nhiễmđộc fluor ở xương còn gây triệu chứng kích thích ruột và đau nhức khớp, dễ chẩnđoán lầm bị bệnh viêm đa khớp dạng thấp. Như bất cứ chất dinh dưỡng nào, fluor được bổ sung hàng ngày với liềulượng vừa đủ là tốt nhất. Việc lạm dụng, cho dù với động cơ tốt, cũng đều tiềm ẩnnhững nguy hiểm cho sức khoẻ. Vì vậy, mọi người phải hết sức tỉnh táo trướcnhững lời đường mật của các chương trình q ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
cách chăm sóc sức khỏe kiến thức y học cách phòng và trị bệnh bệnh thường gặpTài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 234 0 0 -
7 trang 194 0 0
-
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 178 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 169 0 0 -
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 144 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
4 trang 111 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 110 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 98 0 0