Tinh thần Ngày Độc lập 2/9 và bài học xây dựng chính quyền vì dân, do dân
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 223.26 KB
Lượt xem: 1
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và giành thắng lợi nhanh chóng ở Thủ đô ngày 19/8/1945 đã đưa toàn dân ta tiến lên giành chính quyền trong cả nước, đập tan chế độ thực dân phong kiến, lập nên một nhà nước do dân, vì dân lần đầu tiên xuất hiện ở đất nước ta cũng như trong khu vực.Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 - Ảnh tư liệu
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tinh thần Ngày Độc lập 2/9 và bài học xây dựng chính quyền vì dân, do dân Tinh thần Ngày Độc lập 2/9 và bài học xây dựng chính quyền vì dân, do dânCuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và giành thắng lợi nhanh chóng ở Thủ đô ngày19/8/1945 đã đưa toàn dân ta tiến lên giành chính quyền trong cả nước, đậptan chế độ thực dân phong kiến, lập nên một nhà nước do dân, vì dân lần đầutiên xuất hiện ở đất nước ta cũng như trong khu vực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 - Ảnh tư liệuChiều 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong Tuyên ngôn Độc lập,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố: “…Dân ta đã đánh đổ các xiềngxích thực dân gần 100 năm để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lạiđánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ViệtNam: kỷ nguyên bằng nội lực của chính mình, lấy sức mạnh tự lực cánh sinh củatoàn dân để vùng lên làm chủ đất nước, sánh vai với các nước năm châu.Bài học thứ nhất của Cách mạng Tháng Tám là bài học về sự vận dụng đại đoànkết toàn dân để giành chính quyền ít đổ máu.Bài học thứ hai của Cách mạng Tháng Tám còn là bài học về công cuộc xây dựngmột chính quyền do dân, vì dân có sức mạnh không gì bẻ gãy được để thực hiệnmột công cuộc giải phóng xã hội thực sự và rộng lớn.Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, những khái niệm thiêng liêng về bìnhđẳng, tự do đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm từ phạm vi cá nhânra phạm vi dân tộc, tính khái quát thực sự đã được khai triển rộng lớn hơn.Sau khi trân trọng trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và bảnTuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp năm 1789, Người đã nhấn mạnh:“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyềnsống, quyền sung sướng và quyền tự do.Bản Tuyên ngôn Độc lập 65 năm trước đã đặt nền móng không chỉ cho sự nghiệpgiải phóng dân tộc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho công cuộc giải phóng xãhội.Nếu như ở Mỹ, trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, có cụm từ “all men” (cónghĩa là tất cả mọi người đàn ông) nên quyền bầu cử hơn 100 năm sau chỉ là độcquyền của đàn ông, cho đến sau đại chiến thế giới thứ hai, phụ nữ Mỹ mới cóquyền bầu cử. Hiến pháp năm 1946, tuy chỉ cô đọng trong 70 điều khoản, nh ưng nó đã là mộtHiến pháp làm khuôn mẫu cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền do dân, vì dân - Ảnh tư liệuCòn ở Việt Nam, ngay trong tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đ ã ký các sắclệnh tổ chức Tổng tuyển cử cho toàn dân không phân biệt nam nữ, dân tộc, thànhphần giai cấp.Cuộc Tổng tuyển cử được thực hiện ngay đầu năm 1946 đã là một cuộc phổ thôngđầu phiếu tự do, rộng rãi cho toàn dân, một cuộc bầu cử thực sự dân chủ đứng ởhàng đầu tiến bộ trên thế giới. Nó đã được tiến hành theo một phương châm tiếnbộ nhất, theo chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, là làm cuộc “cách mạng đến nơi; nghĩa là:cách mạng rồi thì quyền phải giao cho dân chúng số nhiều vì dân chúng phải đượchưởng cái tự do, bình đẳng thật”.Hiếm có một cuộc cách mạng nào chỉ trong vòng một năm, mà lực lượng cáchmạng đã thiết lập nên một chế độ chính trị, một nhà nước và chính quyền nhân dântrong toàn quốc, do chính từng người dân xây dựng nên.Bài học thứ ba của Cách mạng Tháng Tám không phải chỉ là bài học xây dựngmột chính quyền do dân, mà còn là bài học về việc xây dựng một chính quyền vìdân, đáp ứng được nguyện vọng thực thi công cuộc giải phóng xã hội, giải phóngcon người.Quyền công dân và quyền con người thực sự đã được ghi nhận thành nhữngnguyên tắc cao nhất của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộnghòa đã được Quốc hội khóa I thông qua trong kỳ họp đầu tiên năm 1946.Đối với thế giới, quyền công dân và quyền con người là thành quả phát triển củanền văn minh nhân loại. Chỉ khi các nước bước ra khỏi “đêm trường Trung cổ”bước sang thời đại văn minh mới có các khái niệm về quyền công dân, xã hội côngdân và quyền con người. Tuy nhiên, ở mỗi nước, mỗi thời kỳ, khái niệm về cácquyền ấy vẫn hạn hẹp.Sau Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, chế độ nô lệ vẫn tồn tại ở nước Mỹ. SauTuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 ở Pháp, quyền bình đẳng trongbầu cử, ứng cử của người theo đạo Do Thái, của người không có tài sản vẫn khôngđược thừa nhận. Trong phạm vi thế giới, quyền con người vẫn chỉ thuộc về một sốít dân tộc gọi là “văn minh”.Còn ở Việt Nam, ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, với sự chuẩn bị kỹ lưỡngvề lý luận cũng như kỹ năng lập hiến, lập pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạoviệc nhanh chóng xây dựng Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộnghòa với những tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại.Hiến pháp năm 1946, tuy chỉ cô đọng trong 70 điều khoản, nh ưng nó đã là mộtHiến pháp làm khuôn mẫu cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền do dân, vìdân.Tuân thủ nguyên tắc đảm bảo các quyền tự do, dân chủ, Hiến pháp 1946 rất chútrọng đến chế định quyền công dân.Hiến pháp có 7 chương thì riêng một chương 2 được dành cho chế định các quyềncông dân và quyền tự do trong đời sống xã hội. Điều 10 của Hiến pháp quy định:“ Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức vàhội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.Phải nói rằng Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, rộng rãi, mặcdù hoàn cảnh xã hội có những nét phức tạp khó khăn riêng.Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọicông dân được pháp luật ghi nhận trong điều 6 và điều 7. Và cũng là lần đầu tiêntrong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phươngdiện.Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp cô đọng, khúcchiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người.Mặc dù theo diễn biến của dòng chảy lịch sử, nước ta còn có các Hiến pháp 1959,1980 và hiện nay là Hiến pháp 1992 kế thừa và phát huy những nguyên t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tinh thần Ngày Độc lập 2/9 và bài học xây dựng chính quyền vì dân, do dân Tinh thần Ngày Độc lập 2/9 và bài học xây dựng chính quyền vì dân, do dânCuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và giành thắng lợi nhanh chóng ở Thủ đô ngày19/8/1945 đã đưa toàn dân ta tiến lên giành chính quyền trong cả nước, đậptan chế độ thực dân phong kiến, lập nên một nhà nước do dân, vì dân lần đầutiên xuất hiện ở đất nước ta cũng như trong khu vực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 - Ảnh tư liệuChiều 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong Tuyên ngôn Độc lập,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố: “…Dân ta đã đánh đổ các xiềngxích thực dân gần 100 năm để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lạiđánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ViệtNam: kỷ nguyên bằng nội lực của chính mình, lấy sức mạnh tự lực cánh sinh củatoàn dân để vùng lên làm chủ đất nước, sánh vai với các nước năm châu.Bài học thứ nhất của Cách mạng Tháng Tám là bài học về sự vận dụng đại đoànkết toàn dân để giành chính quyền ít đổ máu.Bài học thứ hai của Cách mạng Tháng Tám còn là bài học về công cuộc xây dựngmột chính quyền do dân, vì dân có sức mạnh không gì bẻ gãy được để thực hiệnmột công cuộc giải phóng xã hội thực sự và rộng lớn.Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, những khái niệm thiêng liêng về bìnhđẳng, tự do đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm từ phạm vi cá nhânra phạm vi dân tộc, tính khái quát thực sự đã được khai triển rộng lớn hơn.Sau khi trân trọng trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và bảnTuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp năm 1789, Người đã nhấn mạnh:“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyềnsống, quyền sung sướng và quyền tự do.Bản Tuyên ngôn Độc lập 65 năm trước đã đặt nền móng không chỉ cho sự nghiệpgiải phóng dân tộc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho công cuộc giải phóng xãhội.Nếu như ở Mỹ, trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, có cụm từ “all men” (cónghĩa là tất cả mọi người đàn ông) nên quyền bầu cử hơn 100 năm sau chỉ là độcquyền của đàn ông, cho đến sau đại chiến thế giới thứ hai, phụ nữ Mỹ mới cóquyền bầu cử. Hiến pháp năm 1946, tuy chỉ cô đọng trong 70 điều khoản, nh ưng nó đã là mộtHiến pháp làm khuôn mẫu cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền do dân, vì dân - Ảnh tư liệuCòn ở Việt Nam, ngay trong tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đ ã ký các sắclệnh tổ chức Tổng tuyển cử cho toàn dân không phân biệt nam nữ, dân tộc, thànhphần giai cấp.Cuộc Tổng tuyển cử được thực hiện ngay đầu năm 1946 đã là một cuộc phổ thôngđầu phiếu tự do, rộng rãi cho toàn dân, một cuộc bầu cử thực sự dân chủ đứng ởhàng đầu tiến bộ trên thế giới. Nó đã được tiến hành theo một phương châm tiếnbộ nhất, theo chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, là làm cuộc “cách mạng đến nơi; nghĩa là:cách mạng rồi thì quyền phải giao cho dân chúng số nhiều vì dân chúng phải đượchưởng cái tự do, bình đẳng thật”.Hiếm có một cuộc cách mạng nào chỉ trong vòng một năm, mà lực lượng cáchmạng đã thiết lập nên một chế độ chính trị, một nhà nước và chính quyền nhân dântrong toàn quốc, do chính từng người dân xây dựng nên.Bài học thứ ba của Cách mạng Tháng Tám không phải chỉ là bài học xây dựngmột chính quyền do dân, mà còn là bài học về việc xây dựng một chính quyền vìdân, đáp ứng được nguyện vọng thực thi công cuộc giải phóng xã hội, giải phóngcon người.Quyền công dân và quyền con người thực sự đã được ghi nhận thành nhữngnguyên tắc cao nhất của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộnghòa đã được Quốc hội khóa I thông qua trong kỳ họp đầu tiên năm 1946.Đối với thế giới, quyền công dân và quyền con người là thành quả phát triển củanền văn minh nhân loại. Chỉ khi các nước bước ra khỏi “đêm trường Trung cổ”bước sang thời đại văn minh mới có các khái niệm về quyền công dân, xã hội côngdân và quyền con người. Tuy nhiên, ở mỗi nước, mỗi thời kỳ, khái niệm về cácquyền ấy vẫn hạn hẹp.Sau Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, chế độ nô lệ vẫn tồn tại ở nước Mỹ. SauTuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 ở Pháp, quyền bình đẳng trongbầu cử, ứng cử của người theo đạo Do Thái, của người không có tài sản vẫn khôngđược thừa nhận. Trong phạm vi thế giới, quyền con người vẫn chỉ thuộc về một sốít dân tộc gọi là “văn minh”.Còn ở Việt Nam, ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, với sự chuẩn bị kỹ lưỡngvề lý luận cũng như kỹ năng lập hiến, lập pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạoviệc nhanh chóng xây dựng Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộnghòa với những tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại.Hiến pháp năm 1946, tuy chỉ cô đọng trong 70 điều khoản, nh ưng nó đã là mộtHiến pháp làm khuôn mẫu cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền do dân, vìdân.Tuân thủ nguyên tắc đảm bảo các quyền tự do, dân chủ, Hiến pháp 1946 rất chútrọng đến chế định quyền công dân.Hiến pháp có 7 chương thì riêng một chương 2 được dành cho chế định các quyềncông dân và quyền tự do trong đời sống xã hội. Điều 10 của Hiến pháp quy định:“ Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức vàhội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.Phải nói rằng Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, rộng rãi, mặcdù hoàn cảnh xã hội có những nét phức tạp khó khăn riêng.Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọicông dân được pháp luật ghi nhận trong điều 6 và điều 7. Và cũng là lần đầu tiêntrong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phươngdiện.Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp cô đọng, khúcchiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người.Mặc dù theo diễn biến của dòng chảy lịch sử, nước ta còn có các Hiến pháp 1959,1980 và hiện nay là Hiến pháp 1992 kế thừa và phát huy những nguyên t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tư tưởng Chính trị Lý luận pháp luật nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội quyền lực nhà nướcTài liệu liên quan:
-
112 trang 301 0 0
-
Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
10 trang 236 0 0 -
Bài thuyết trình: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chủ nghĩa Xã hội
42 trang 233 0 0 -
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam
14 trang 182 0 0 -
6 trang 179 0 0
-
Tiểu luận: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21 trang 162 0 0 -
Đề tài: CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
18 trang 151 0 0 -
57 trang 142 0 0
-
214 trang 134 0 0
-
Giáo trình Học thuyết tam quyền phân lập (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
58 trang 116 0 0