Danh mục

Tình trạng đa giải pháp âm vị học

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 125.02 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

"Tình trạng đa giải pháp âm vị học" trình bày chuyên đề về âm vị học tiếng Việt mở rộng trong việc khai thác những điểm mạnh của giải pháp âm vị học thay vì phủ nhận sạch trơn những vấn đề về âm vị học mà tiền nhân đã để lại. Để nắm rõ nội dung tài liệu mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình trạng đa giải pháp âm vị học Tình trạng đa giải pháp âm vị học Đứng trước một hiện tượng âm thanh, do những xuất phát điểm khácnhau mà nhà âm vị học có thể có những kiễn giải riêng của mình về sự tồntại hiện tượng âm thanh nào đó. Ví dụ: A. de Rhodes (1651) cho rằng (quahệ thống chữ quốc ngữ mà ông sáng lập) các phụ âm cuối C2 đi sau cácnguyên âm trước là các âm ngạc cứng /- / hoặc /-c/: đinh, đích. Nhưng, sau300 năm, cũng với hiện tượng này, Đoàn Thiện Thuật và Cao Xuân Hạo lạicho rằng đó chính là các phụ âm ngạc nói chung. Do bị ảnh hưởng bởi tínhchất trước của nguyên âm có trong vần mà những âm này đã biến thànhnhững âm ngạc cứng là:/-ŋ/ → /- /; /-k/ → /-c/. Đó là hai giải pháp âm vị đối với phụ âm cuối tiếng Việt. Giải thuyết củaA. de Rhodes cũng như giải thuyết của Đoàn Thiện Thuật và Cao Xuân Hạo,về mặt chân lí là ngang nhau. Nghĩa là chúng đều “đúng” như nhau, vìnhững điểm phê phán đối với A. de Rhodes về tính không nhất quán của giảipháp này lại không tính đến những hiện thức hoá khác nhau của các âm vịnày ở các miền khác nhau trên đất nước. Mặt khác, người ta không nhầm lẫnkhi ghi chữ quốc ngữ trong thực tế. Điều này chứng tỏ giá trị thực tiễn rấtcao của giải pháp A. de Rhodes. Cũng tương tự như vậy, khi bàn về cácnguyên am dài và ngắn trong tiếng Việt, A. de Rhodes và các nhà âm vị họchiện đại (Lê Văn Lí, Nguyễn Phan Cảnh, Cao Xuân Hạo, Đoàn Thiện Thuật,B. Emeneau, L.C. Thompson…) đều cho rằng có một hiện tượng ngắn vàdài ở giữa các nguyên âm. Ví dụ:/ă/ trong “ăn“/a/ trong “an“Tuy nhiên, Nguyễn Bạt Tuỵ lại cho rằng sự ngắn dài đó chỉ là ảo giác củachúng ta về nguyên âm, do chỗ nguyên âm là thành phần chứa nhiều nănglượng nhất, làm đỉnh của âm tiết nên hầu như tất cả các vấn đề của âm tiếtđều tập trung ở nguyên âm. Sự khác biệt giữa /ă/ và /a/ là do sự kết hợp chặthay lỏng, căng hay lơi giữa nguyên âm ấy với các phụ âm sau nó. Bằngchứng là, trong các âm tiết mở (khi phụ âm cuối là /zero/) không có sự đốilập ngắn/dài ở nguyên âm. Về mặt lí thuyết, đây là một quan điểm học thuậtrất tiến bộ bởi vì từ những lí thuyết rất tiến bộ của Jakobson (1912) đếnGoldsmith (1978) thì vấn đề tiếp hợp chỗ nối giữa hai âm đã tạo thành mộtđặc điểm nét khu biệt trong hệ thống nét khu biệt của âm vị học. Nét này cótên là laxness/tenseness(căng/lơi) hay còn gọi là nét lỏng/chặt mà các cấu âmnguyên âm tiếng Anh có sự thể hiện rất rõ nét. Ngay từ 1934, Y.R. Chao (Triệu Nguyên Nhiệm) đã nhận thức được tìnhtrạng đa giải pháp này đối với một hệ thống âm vị học. Ông cho rằng: Miễnlà các nhà âm vị học không sai phạm về các logic suy luận, còn thì các hệthống âm vị học mà họ đã thiết lập cho một ngôn ngữ đều bình đẳng vớinhau về giá trị chân lí. Việc giải pháp này là “đúng” hơn những giải phápkhác suy cho cùng là một sự căn cứ trên giá trị sử dụng của giải pháp đó màthôi. Vì vậy, những sự phê bình những giải pháp âm vị học một cách quánặng nề như cuốnNgữ âm tiếng Việt (Đoàn Thiện Thuật) là một điều rấtkhông nên. Âm vị học tiếng Việt mở rộng cho rằng, mỗi một giải pháp âm vịhọc đã có đề có những hạt nhân chân lí của chúng, đều chứng tỏ một cáchtiếp cận của nhà âm vị học đối với thực tế tiếng Việt. Vì vậy, chúng ta nênkhai thác những điểm mạnh của giải pháp đó hơn là chúng ta phủ nhận sạchtrơn những vấn đề âm vị học mà tiền nhân đã làm. Để có thể dung nạp đượctất cả những ý tưởng đó, cần một khung lí thuyết âm vị học đủ bao dung vàkhai thác được khả năng ứng dụng cho từng giải pháp. Đó chính là lí do rađời chuyên đề âm vị học tiếng Việt mở rộng.

Tài liệu được xem nhiều: