Danh mục

Tình trạng nhiễm IHHNV ở tôm sú nuôi (Peneaus monodon) trên các mô hình nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 383.82 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và lập biểu mô (IHHNV) là nguyên nhân gây chết trên tôm xanh, hội chứng biến dạng và còi cọc chậm lớn trên tôm thẻ chân trắng. Mẫu tôm sú được thu từ các mô hình nuôi (thâm canh, bán thâm canh và quảng canh) và trại giống ở Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung từ năm 2012-2013.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình trạng nhiễm IHHNV ở tôm sú nuôi (Peneaus monodon) trên các mô hình nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÌNH TRẠNG NHIỄM IHHNV Ở TÔM SÚ NUÔI (Peneaus monodon) TRÊN CÁC MÔ HÌNH NUÔI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Cao Thành Trung1*, Nguyễn Hồng Lộc1, Phạm Công Nguyên2 và Nguyễn Văn Hảo3 TÓM TẮT Virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và lập biểu mô (IHHNV) là nguyên nhân gây chết trên tôm xanh, hội chứng biến dạng và còi cọc chậm lớn trên tôm thẻ chân trắng. Mẫu tôm sú được thu từ các mô hình nuôi (thâm canh, bán thâm canh và quảng canh) và trại giống ở Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung từ năm 2012-2013. Mẫu tôm thu ở các mô hình nuôi sẽ được theo dõi và thu 4 đợt trong suốt vụ nuôi. Mẫu tôm bố mẹ và ấu trùng ở các trại giống sẽ thu theo giai đoạn biến thái (Nauplii, Zoea, Mysis và Postlarve) được phân tích bằng PCR. Kết quả phân tích PCR trên tôm sú trên mô hình nuôi quảng canh ở Cà Mau và Bạc Liêu là 46,59±10,52 và 32,53±10,07%. Trên mô hình bán thâm canh ở Trà Vinh và Bạc Liêu có tỷ lệ nhiễm trung bình là 62,77 ±14,4% và 36,77±7,6%. Trong đó tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở đầu vụ nuôi là 22,22±10,3% và cao nhất ở cuối vụ nuôi là 92,31±14,5%. Trên mô hình thâm canh tỷ lệ nhiễm trung bình ở Kiên Giang là 38,64±14,4% và ở Sóc Trăng là 31,25±22,7%, tỷ lệ thấp nhất là 16,67±21,1%, và cao nhất là 62,50±33,5%. Trên trại giống, trại quy mô lớn có tỷ lệ nhiễm IHHNV thấp hơn so với trại ương nhỏ cả 2 vùng miền Nam và miền Trung. Tỷ lệ nhiễm IHHNV ở con mẹ tham gia sinh sản tự nhiên có tỷ lệ nhiễm cao hơn 50% quần đàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở tôm sú nuôi ở tất cả mô hình và trại giống đều có hiện diện IHHNV. Tỷ lệ nhiễm IHHNV phụ thuộc vào thời gian, độ tuổi tôm nuôi, điều kiện môi trường và quá trình chăm sóc, Kết quả điều tra cho thấy năng suất cũng không có sự khác biệt rõ ràng giữa đàn tôm sú nhiễm và không nhiễm trong các mô hình nuôi. Tuy nhiên, để hạn chết sự lây lan và tôm nuôi phát triển tốt nhất thì quần đàn đó không nhiễm bất cứ virus nào, chính vì vậy nên xét nghiệm con mẹ và giống trước khi đưa vào sinh sản và ương nuôi. Từ khóa: IHHNV, PCR, tôm sú, mô hình nuôi tôm, trại giống. I. MỞ ĐẦU đang đối mặt với các mối nguy dịch bệnh do Ngành nuôi tôm công nghiệp trên toàn virus, vi khuẩn làm ảnh hưởng đến năng suấtcầu đã phát triển mạnh trong những năm qua, cũng như sản lượng tôm nuôi. Virus hoại tử cơvới giá trị xuất khẩu lên đến hàng tỷ đô la và quan lập biểu mô và cơ quan tạo máu (IHHNV)là ngành mũi nhọn trong nền kinh tế các nước là một trong những tác nhân gây bệnh có độcở Châu Á và Châu Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh lực rất cao đối với tôm xanh Thái Bình Dươngnhững giá trị mang lại thì nghề nuôi tôm cũng (Litopenaeus stylirostris), tỷ lệ tôm chết lên trên1 Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồngThủy sản 2.2 Trường Đại học khoa học Tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh.3 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2.* Email: thanhtrung77@yahoo.com.102 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 290 % sau 14 ngày lây nhiễm đối với tôm 30-50 IHHNV trên tôm sú nuôi rất hạn chế. Chỉ cóngày tuổi. Tuy nhiên, đối với tôm thể chân trắng một vài nghiên cứu gần đây của nhóm nghiênvà tôm sú nuôi (Penaeus vannamei và Penaeus cứu Hùng và ctv., (2009) đánh giá về tần xuấtmonodon) tôm có thể mang nhiễm virus này, xuất hiện IHHNV trên tôm sú nhưng số lượngnhưng không gây chết đã được ghi nhận. Chúng mẫu rất hạn chế, 307 mẫu (tỷ lệ nhiễm 160/307chỉ gây hội chứng chậm lớn và dị dạng trên tôm ≈ 52,12%). Do đó, còn rất nhiều các vấn đềnuôi (Bell và Lightner., 1984; Primavera và cần được làm rõ liên quan đến virus IHHN tạiQuinito., 2000). Sự lây nhiễm IHHNV trên tôm Việt Nam như: Tình trạng nhiễm IHHNV trênsú Penaeus monodon trước đây không được quần đàn tôm bố mẹ; Khả năng lây truyền củaquan tâm. Mặc dù vậy, một số nghiên cứu chỉ chúng sang thế hệ con trong điều kiện sản suấtra rằng IHHNV hiện diện trên loài tôm này và và an toàn sinh học thực tế tại Việt Nam; Tỷ lệcũng gây ra hội chứng RDS ở các mẫu tôm sú nhiễm IHHNV ở giai đoạn tôm sú giống xuấtnuôi bị nhiễm IHHNV tại Philippine. Kết quả bán và các giai đo ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: