Danh mục

Tình trạng nợ xấu của ngân hàng Việt Nam

Số trang: 4      Loại file: docx      Dung lượng: 34.79 KB      Lượt xem: 22      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết Tình trạng nợ xấu của ngân hàng Việt Nam trình bày thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam, đề xuất cơ chế xử lý nợ xấu ngân hàng về phía các ngân hàng thương mại, về phía doanh nghiệp vay vốn, về phía Ngân hàng Nhà nước.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình trạng nợ xấu của ngân hàng Việt Nam Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh t ế và tính an toàn, hi ệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Bài viết điểm qua một số nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng và đề xuất cơ chế xử lý. Ảnh minh họa: Nguồn Internet Thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam Mặc dù đã có nhiều ý kiến trao đổi về nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM), nh ưng cho đ ến nay, v ẫn chưa có tiếng nói thống nhất nợ xấu về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam. Thống đ ốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại các NHTM kho ảng 10%. Trong khi c ơ quan Thanh tra NHNN lại đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng khoảng 8,6%, tương đ ương với trên 200.000 t ỷ đ ồng. Bên cạnh những con số được NHNN công bố nói trên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng đ ưa ra t ỷ l ệ n ợ xấu là 11,8%, tương đương với khoảng 270.000 tỷ đồng. Vậy nợ xấu của các ngân hàng Vi ệt Nam là bao nhiêu vẫn còn là ẩn số nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng nợ xấu tại các ngân hàng là con số không nhỏ. Tại sao có sự khác nhau về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng? Có thể lý giải về sự khác nhau này như sau: Thứ nhất, do cách phân loại nợ. Theo quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (TCTD), “nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 (Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN). Trong đó nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn) là các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) là các khoản nợ có khả năng tổn thất rất cao và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) là các khoản nợ được coi là không còn khả năng thu hồi, mất v ốn. Thông thường ở các nước đang phát triển, nếu nợ xấu của các ngân hàng được phân lo ại theo các chỉ tiêu đ ịnh lượng và định tính phù hợp với thông lệ quốc tế, thì tỷ lệ này dưới 5% cũng là bình thường. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn có sự khác nhau về năng lực quản trị rủi ro và việc xếp hạng tín dụng nội bộ. Hệ thống xếp h ạng tín d ụng nội bộ tại các NHTM Việt Nam hiện nay đều được xây dựng theo phương pháp chuyên gia, nghĩa là vi ệc l ựa chọn, quyết định toàn bộ các yếu tố cơ bản của hệ thống xếp hạng (bộ chỉ tiêu, trọng số của từng chỉ tiêu) hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của các chuyên gia thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch sử và phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ chưa là cơ sở xây dựng các thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ tính toán chuẩn xác tổn thất dự tính và yêu cầu vốn tối thi ểu bù đ ắp rủi ro. Đi ều này d ẫn đ ến h ạn ch ế trong quản trị rủi ro danh mục, định giá tín dụng và xác định khẩu vị rủi ro… của từng ngân hàng. Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng thường theo những khẩu vị rủi ro riêng. V ấn đ ề này đã d ẫn đến một số bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách hàng nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột (cùng 1 khách hàng, có ngân hàng phân loại vào nhóm nợ cao, có ngân hàng l ại phân loại vào nhóm nợ thấp). Mặt khác, việc triển khai xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên gia nhi ều kinh nghi ệm thực tiễn cũng như am hiểu sau sắc mô hình xếp hạng tín dụng (modelling), trong khi thị trường nhân l ực hi ện tại c ủa Việt Nam còn rất thiếu. Thứ hai, thông tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác. Điều này gây không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc thiết lập quan hệ tín dụng. Ở Việt Nam, trên 90% là DN nhỏ và vừa, không ít DN có báo cáo tài chính không chuẩn xác, l ại không qua ki ểm toán. Ngay cả đối với các DN lớn được kiểm toán thì sự chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán chưa cao cũng gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế, việc dựa vào một số thông tin đầu vào để cấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng đã khó có khả năng thu hồi. Đặc biệt, khi ngân hàng và DN lại có mối quan hệ “mật thiết”, phụ thuộc lẫn nhau (s ở hữu chéo) thì ngu ồn l ực d ễ b ị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các quy định về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên. Thứ ba, hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng... đã t ạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền. Đây cũng là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi tính minh bạch và giải trình còn hạn chế. Tổng phương tiện thanh toán (M2) của 9 tháng đ ầu năm tăng 12,21%, nhưng tín dụng chỉ tăng 2,5%, trong khi chứng khoán cũng không phải là kênh được các ngân hàng quan tâm kể từ khi có văn bản hạn chế cho vay chứng khoán của NHNN; bất động sản cũng đóng băng; vay tiêu dùng không được xem là kênh ưu tiên trong thời gian qua. Như vậy, phải chăng nợ xấu đang chạy òng vòng gi ữa ngân hàng và các Doanh nghiệp có quan hệ mật thiết. Nếu th ế, nợ xấu sẽ ngày một phình to và càng khó xác định, lãi suất sẽ tiếp tục bị đẩy lên cao, DN sản xuất kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn. Thứ tư, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghi ệp của một s ố cán b ộ ngân hàng và khách hàng. Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo làm nghề ngân hàng không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt buộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã c ấu k ết v ới khách hàng để che giấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa có s ố li ệu công bố nhưng trong tổng số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo đức nghệ nghi ệp... đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng ngày càng tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hi ện t ại đã và đang tác động tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc l ưu thông dòng vốn vào n ền kinh t ế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Ch ...

Tài liệu được xem nhiều: