Danh mục

Tổn thương mắt do dùng thuốc

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 102.41 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong cơ thể con người, mắt và gan là hai cơ quan rất dễ bị tổn thương bởi thuốc. Các tổn thương mắt không chỉ xảy ra do các thuốc dùng tại chỗ mà còn có thể do các đường toàn thân như uống, tiêm truyền. Có rất nhiều loại thuốc khác nhau có thể gây ra các tổn thương ở mắt, bao gồm cả các loại thuốc bán theo đơn và bán không cần đơn. Các tổn thương mi mắt và kết mạc Hội chứng Stevens - Johnson và Lyell là những biểu hiện dị ứng thuốc chậm nguy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tổn thương mắt do dùng thuốc Tổn thương mắt do dùng thuốcTrong cơ thể con người, mắt và gan là hai cơ quan rất dễbị tổn thương bởi thuốc. Các tổn thương mắt không chỉxảy ra do các thuốc dùng tại chỗ mà còn có thể do cácđường toàn thân như uống, tiêm truyền. Có rất nhiều loạithuốc khác nhau có thể gây ra các tổn thương ở mắt, baogồm cả các loại thuốc bán theo đơn và bán không cầnđơn.Các tổn thương mi mắt và kết mạcHội chứng Stevens - Johnson và Lyell là những biểu hiệndị ứng thuốc chậm nguy hiểm nhất, người bệnh thường cócác bọng nước lớn trên da, sốt cao, kèm theo viêm loétcác hốc tự nhiên như mắt, miệng, bộ phận sinh dục…Nguyên nhân thường gặp là các loại thuốc phenobarbital,sulfonamide, sulfadiazine, ampicillin, isoniazid,allopurinol… Tổn thương mắt trong các hội chứng nàythường là viêm loét kết mạc, có mủ, vảy tiết gây dính mắthoặc tạo giả mạc. Trong những trường hợp để lại sẹo cóthể dẫn đến co rút, biến dạng mi mắt, lông quặm và khômắt. Phương pháp điều trị là phải ngưng ngay loại thuốcgây dị ứng, kết hợp điều trị toàn thân với các biện phápchăm sóc tại chỗ để tránh biến chứng nhiễm trùng và cácdi chứng tại mắt.Nhiều loại thuốc dùng tại chỗ hoặc toàn thân nhưisotretinoin, morphine, các dẫn xuất thuốc phiện và độc tốBotulinum type A…, có thể gây các tổn thương đơn thuầnở kết mạc, không có kèm theo các rối loạn ở biểu mô giácmạc, với biểu hiện chủ yếu là đỏ mắt, cảm giác ngứa mắt,rát bỏng, có sạn trong mắt và chảy nước mắt. Các chấtphụ gia và bảo quản trong thuốc, đặc biệt làbenzalkonium chloride và thiomersal, cũng có thể lànguyên nhân gây ra các tổn thương này. Các tổn thươngkết mạc thường thoáng qua và sẽ thuyên giảm khi ngưngdùng thuốc, nhưng với những thuốc dùng kéo dài tại chỗ,đặc biệt trong điều trị chứng khô mắt và glôcôm (thiênđầu thống), có thể gây phù nề mi mắt, hội chứng khô mắthoặc nổi ban sẩn, tạo nang trên kết mạc.Glôcôm do thuốcĐây là biểu hiện tăng nhãn áp thứ phát do dùng một sốloại thuốc, được chia làm 2 nhóm là glôcôm góc đóng vàglôcôm góc mở. Các thuốc glucocorticoid nhưprednisolon, dexamethason…, với tất cả các đường dùngnhư nhỏ mắt, tiêm cạnh nhãn cầu, uống, tiêm truyền…đều có thể gây tăng nhãn áp dẫn đến glôcôm góc mở.Thời gian từ lúc bắt đầu điều trị tới khi xuất hiện tăngnhãn áp và mức độ của tăng nhãn áp phụ thuộc vào loạithuốc, liều lượng, đường dùng và tính nhạy cảm cá thể.Để giảm loại biến chứng này, trong quá trình điều trị bằngglucocorticoid nên dùng liều thấp nhất có thể, kiểm tranhãn áp định kỳ để có thể phát hiện và điều trị sớm tìnhtrạng tăng nhãn áp. Một số thuốc chống ung thư nhưdocetaxel và paclitaxel cũng được ghi nhận có thể gây rahoặc làm nặng tình trạng glôcôm góc mở. Glôcôm gócđóng cấp tính thường có tăng nhãn áp mức độ nặng, xảyra đột ngột, gây đau mắt, đỏ mắt và rối loạn thị lực. Mộtsố loại thuốc có thể gây ra các cơn tăng nhãn áp cấp tínhcủa glôcôm góc đóng là nhóm các thuốc cường giao cảm(như adrenalin, salbutamol), nhóm kháng cholinergic(atropin, ipratropium bromide), một số thuốc chống trầmcảm (như fluoxetin, paroxetine, fluvoxamin vàvenlafaxin), thuốc kháng histamin H2 (cimetidin,ranitidin) và thuốc chống động kinh topiramat.Ðục thủy tinh thểĐục thủy tinh thể dưới bao sau thường gặp sau dùngglucocorticoid kéo dài, bao gồm cả đường uống, tiêmtruyền, dùng tại chỗ như tra mắt, tiêm cạnh nhãn cầu, bôicạnh mắt, xịt mũi và hít. Sau khi ngưng dùng thuốc, tìnhtrạng đục thủy tinh thể thường vẫn tiến triển hoặc ổn định,hiếm khi thuyên giảm. Các thuốc an thần trong nhómphenothiazin, đặc biệt là chlorpromazin và thioridazin,cũng có thể gây ra biến chứng đục thủy tinh thể. Sử dụngđường toàn thân các thuốc này có thể gây ra tích tụ cáchạt nhỏ ở vùng vỏ trước của thủy tinh thể, màu từ trắngđến vàng nâu, lâu dần sẽ phát triển thành đục thủy tinh thểcực trước. Busulfan, một loại thuốc chống ung thư cũngđược ghi nhận có thể gây đục thủy tinh thể dưới bao sau.Tổn thương võng mạcMột số loại thuốc dùng đường toàn thân có thể tiếp cận vàgây độc cho võng mạc mắt thông qua đường máu. Tổnthương võng mạc do các thuốc chống sốt rét trong nhómaminoquinolin như chloroquin và hydroxychloroquinthường phụ thuộc vào liều dùng, thời gian dùng và tuổicủa người bệnh. Tổn thương thường chỉ có thể hồi phụctrong giai đoạn sớm nếu kịp thời ngưng thuốc, do đó việcphát hiện sớm là rất quan trọng. Các thuốc chống trầmcảm trong nhóm phenothiazin, đặc biệt là thioridazin, nếudùng liều cao có thể gây ra các rối loạn biểu mô sắc tốtrên võng mạc, dẫn đến giảm, mất thị lực. Một số thuốckhác như isotretinoin, tamoxifen cũng được ghi nhận cóthể gây nhiễm độc võng mạc dẫn đến phù nề, xuất huyếtvõng mạc và giảm thị lực.Tổn thương thần kinh thị giácTổn thương thần kinh thị giác do thuốc thường xảy rađồng thời ở cả 2 mắt, gây giảm thị lực và mất thị trường,thường cải thiện hoặc hồi phục sau khi ngưng dùng thuốc.Ở những mức độ nguy cơ khác nhau, các thuốc t ...

Tài liệu được xem nhiều: