Danh mục

Tổn thương móng do thuốc

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 101.04 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tổn thương móng do thuốc có thể gây ra theo nhiều cơ chế khác nhau nhưng hầu hết các trường hợp là hậu quả của tình trạng nhiễm độc cấp tính đối với tế bào biểu mô móng. Biểu hiện của tổn thương móng do thuốc tùy thuộc vào phần cấu trúc móng bị ảnh hưởng, có thể xảy ra ở một số hoặc tất cả 20 móng. Một số trường hợp chỉ gây ra các vấn đề về thẩm mỹ nhưng một số trường hợp khác có thể gây đau nhức ở vùng xung quanh móng dẫn đến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tổn thương móng do thuốc Tổn thương móng do thuốc Tổn thương móng do thuốc có thể gây ra theo nhiều cơ chế khácnhau nhưng hầu hết các trường hợp là hậu quả của tình trạng nhiễmđộc cấp tính đối với tế bào biểu mô móng. Biểu hiện của tổn thương móng do thuốc tùy thuộc vào phần cấu trúcmóng bị ảnh hưởng, có thể xảy ra ở một số hoặc tất cả 20 móng. Một sốtrường hợp chỉ gây ra các vấn đề về thẩm mỹ nhưng một số trường hợp kháccó thể gây đau nhức ở vùng xung quanh móng dẫn đến hạn chế vận động. Tổn thương móng do thuốc thường xảy ra tạm thời và tự biến mất khingưng dùng thuốc, nhưng cũng có thể kéo dài nhiều tháng. Do tốc độ ngấmcủa thuốc vào tổ chức móng và tốc độ phát triển của móng rất chậm nêntrong một số trường hợp, tổn thương móng xuất hiện sau khi dùng thuốc tớivài tuần, gây nhiều khó khăn cho việc chẩn đoán. Rất nhiều loại thuốc có thểgây ra các bất thường ở móng với những mức độ khác nhau, dưới đây là đặcđiểm thường gặp của các tổn thương móng do một số nhóm thuốc. Thuốc chống đông máu: các thuốc chống đông máu, đặc biệt làwarfarin nếu dùng ở phụ nữ có thai có thể gây cản trở quá trình phát triểnmóng của thai nhi, hậu quả là trẻ đẻ ra sẽ có biểu hiện từ giảm sản móng đếnhoàn toàn không có móng. Tình trạng giảm sản móng có thể tự cải thiện mộtphần sau vài tháng. Thuốc chống đông còn có thể gây xuất huyết dưới móng,thường liên quan đến nhiều móng và biểu hiện rõ ở móng chân. Thuốc chống co giật: carbamazepin, hydantoin, trimethadion vàvalproic acid nếu được dùng ở phụ nữ có thai có thể gây giảm sản móng tayvà móng chân ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra, nếu dùng ở người trưởng thành, cácthuốc này còn có thể gây tăng sắc tố móng, tiêu móng hoặc bong móng từnglớp. Thuốc chống sốt rét: các thuốc chống sốt rét thường làm cho móngcó màu xanh nâu do sự lắng đọng của thuốc ở dưới móng. Ngoài ra, có thểgặp tình trạng tăng sắc tố móng lan tỏa hoặc các dải sắc tố nằm ngang. Saukhi ngưng dùng thuốc, tình trạng tăng sắc tố thường giảm dần sau vài thángnhưng không hết hẳn. Thuốc diệt virut: những bệnh nhân điều trị với lamivudin,azidothymidin. (AZT) và indinavir có thể bị chín mé hoặc nổi các hạt ởmóng tay và móng chân. Các hạt này thường gây đau nhức, tiết dịch và chảymáu, khu trú ở giường móng hoặc đường viền quanh móng, xuất hiện ở mộthoặc nhiều móng. Tổn thương móng do thuốc diệt virut thường xuất hiệnsớm sau điều trị và có liên quan đến liều dùng. Cơ chế bệnh sinh của các tổnthương này còn chưa được biết rõ. Ngoài các tổn thương trên, một số bệnhnhân dùng AZT còn có biểu hiện chậm phát triển móng và rối loạn sắc tốmóng ở nhiều dạng khác nhau, thường gặp ở móng tay hơn so với móngchân. Các rối loạn sắc tố móng do thuốc diệt virut thường hồi phục sau 6 - 8tuần, nhưng cũng có thể kéo dài nhiều tháng sau khi ngưng dùng thuốc. Gầnđây, một số tác giả mô tả tình trạng xuất huyết rải rác dưới móng sau dùngganciclovir. Thuốc chẹn beta giao cảm: các thuốc chẹn bêta giao cảm, đặc biệt lànhững loại tác dụng không chọn lọc trên tim như propanolol, có thể gây comạch và làm giảm tưới máu ở ngọn chi, từ đó dẫn đến các tổn thương hoạitử hoặc nhồi máu ở giường móng. Các triệu chứng này thường giảm dần khingưng dùng thuốc. Hóa chất chống ung thư: các hóa chất chống ung thư có thể gây tổnthương móng dưới rất nhiều hình thái khác nhau. Biểu hiện thường gặp nhấtlà các đường lõm ở móng hoặc bong móng từng lớp, đây là các dấu hiệuđiển hình của tình trạng nhiễm độc tế bào mầm móng dẫn đến giảm tạm thờihoặc ngưng hẳn quá trình tạo móng. Các biểu hiện này thường xuất hiện saudùng thuốc 2 - 3 tuần và biểu hiện đồng thời ở tất cả các móng với mức độtổn thương tương đương nhau. Tách móng c ũng là một biểu hiện thườnggặp, đây là hậu quả của tình trạng nhiễm độc tế bào biểu mô giường móng,làm cho móng không còn khả năng kết dính và bị tách ra khỏi giường móng.Móng bị tách chuyển thành màu trắng đục và có thể gây đau. Tách móngthường gặp ở các bệnh nhân được điều trị với hóa chất nhóm taxane nhưdocetaxel và paclitaxel. Một số tổn thương móng khác cũng có thể gặp dohóa trị liệu chống ung thư như nứt gãy móng, rối loạn sắc tố móng, chín méhoặc xuất huyết dưới móng. Các tổn thương này đều có khả năng hồi phụckhi ngưng sử dụng thuốc. Clofazimin: Clofazimin có thể làm cho móng bị chuyển thành màunâu sẫm do sự lắng đọng của thuốc hoặc gây tăng sừng hóa dưới móng vàtách móng. Các tổn thương móng thường giảm dần khi giảm liều dùng củathuốc. Cyclosporin-A: thuốc có thể gây giảm tốc độ phát triển của mónghoặc tạo ra các đường khía trắng chạy ngang móng. Lithium: điều trị chống trầm cảm với muối lithium carbonat có thểlàm cho các vùng xa của móng chuyển thành màu vàng hoặc xuất hiện cácdải nâu đen chạy ngang trên móng tay đi kèm với bong móng từng lớp.Giảm tốc độ phát triển móng cũng đã được ghi nh ...

Tài liệu được xem nhiều: