Danh mục

TỔN THƯƠNG XƯƠNG-KHỚP TRONG BỆNH PHONG (Lésions ostéo-articulaires dans la lèpre) (Kỳ 3)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.63 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tái calci hóa các cấu trúc xương trường diễn (récalcification des structures osseuses persistantes):Nếu được điều trị, trong một số trường hợp, mang đến sự phục hồi (guérison) với việc xuất hiện các hốc calci hóa, tiến trình tái calci hóaở các chi bị loãng xương và tiêu xương có thể kéo dài nhiều năm sau khi bắt đầu xuất hiện tổn thương (khoảng 5-7 năm).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TỔN THƯƠNG XƯƠNG-KHỚP TRONG BỆNH PHONG (Lésions ostéo-articulaires dans la lèpre) (Kỳ 3) TỔN THƯƠNG XƯƠNG-KHỚP TRONG BỆNH PHONG (Lésions ostéo-articulaires dans la lèpre) (Kỳ 3) oooOOOooo TÁI CALCI HÓA Ở XƯƠNG và PHẢN ỨNG TÁI CẤU TRÚC XƯƠNG (Recalcification et réactions reconstructives osseuses) *Tái calci hóa các cấu trúc xương trường diễn (récalcification desstructures osseuses persistantes): Nếu được điều trị, trong một số trường hợp, mang đến sự phục hồi(guérison) với việc xuất hiện các hốc calci hóa, tiến trình tái calci hóaở các chi bịloãng xương và tiêu xương có thể kéo dài nhiều năm sau khi bắt đầu xuất hiện tổnthương (khoảng 5-7 năm). *Kết hợp vừa phá hủy vừa tái cấu trúc xương (association de destructionet de reconstruction osseuse): Đây là diễn tiến chung của một tình trạng nhiễm trùng từ bên ngoài vàoxương (do xuyên thấu hoặc tổn thương rò vào các đốt ngón). -Gai xương (spina ventosa): Faget và Moyoral thấy rằng các tổn thươngnày hiếm gặp và da ở đốt ngón không bị ảnh hưởng; Lechat thì không đồng ý. -Dính khớp (synostose): dính khớp có thể tạo ra từ sự kết nối 2 giữa khớpcủa ngón liền kề nhau, cho hình ảnh “lưỡi kiếm” (en lame de sabre). -Khớp giả do calci hóa khớp (pseudoarthrose articulaire calcifiée): sau khitự mất đi một phần, các mô quanh khớp được calci hóa kéo dài. -Viêm xương với sự kết hợp vừa phá hủy vừa tái cấu trúc xương: sau khiphát triển các thương tổn bào mòn, một phản ứng tái cấu trúc dưới màng xươngxảy ra mà không có sự hồi phục các tổn thương bị phá hủy. *Các tổn thương xương-khớp (lésions ostéo-articulaires): Xảy ra ở đốt ngón bàn chân, đốt ngón bàn tay hoặc liên đốt ngón tay vớidiễn tiến chung như sau: -Tổn thương tiên phát: hang (géode) Tại đầu xương có một hang nhỏ tăng thể tích chậm và có những đườngviền, mờ lúc khởi phát, ngày càng rõ dần. Hang này diễn tiến chậm vào trongkhoang khớp, ngày càng đi vào gần hơn và chồi vào bên dưới sụn khớp. -Đường thông trong khớp (fistulisation intra-articulaire): Từ những chấn thương, hang mở vào phía dưới khoang khớp. Các sụn biếnmất, hai đầu xương bị loe ra, gắn đầu này vào đầu khác. -Sai khớp xoay bên dưới (subluxation-rotation): Tạo hình ảnh “tai nạn trật đường rầy” (accidents de chemin de fer), “nhồinhét trong toa xe lửa” (tamponnement de wagon”, “đầu của cái nạng” (bec debéquilles) theo Nègre và Fontan. Tình trạng loãng xương ngoại biên, các tổn thương biến dạng nặng ở đầuxương gây ra viêm xương-khớp xương phá hủy với sự hiện diện của các mãnhxương mục. Trong các trường hợp thuận lợi, dính khớp ngang bề mặt khớp có thểxảy ra. CÁC TỔN THƯƠNG XƯƠNG ÍT CÓ PHẦN XA (lesions osseuses moinsdistales) *Các tổn thương khối xương mặt (lésions du massif facial) Sau Lechat và Chardome, Melson và Waaler, J.Reynaud nhấn mạnh biểuhiện bào mòn (raboter) khối xương mặt trên X quang như sau: -Teo và mất đi xương sống mũi (épine nasale); -Teo và mất mấu ổ răng (processus alvéolaire) ở bên trong răng cửa(incisif); -Teo và mất các xương riêng của mũi. *Các tổn thương xương bánh chè (rotule): Nègre và Fontan mô tả trên các bệnh nhân mà họ bị cắt cụt hoàn toàn phíatrên đầu gối, có một số tổn thương của họ do nghề nghiệp (thợ giặt [lavandières])đòi hỏi chống đỡ lực kéo dài trên đầu gối. Các tổn thương xương này càng tănggấp đôi khi có vết thương xuyên thủng. *Tổn thương các xương dài ở chân (atteinte des os longs de la jambe): Các tổn thương xương dài ở chân được mô tả năm 1950 bởi Basset vàSchneider trên 03 bệnh nhân có hội chứng đặc trưng bằng đau khu trú ở chân, tựphát và nặng thêm khi đè vào mặt trong của xương chày (tibiale) và mào xươngchày, kèm các dấu hiệu X quang: tăng mật độ sáng của vỏ thân xương chày vàxương mác (péroné), gợn sóng rất rỏ ở mào xương chày, ngoại trừ khoang tủyxương. Cả 3 bệnh nhân này đang điều trị bằng Disulone. Cochrane và Molesworth mô tả các triệu chứng tương tự trên 15 bệnh nhânđiều trị bằng DDS. Gokhale và Karat, Oliva và Farris cũng báo cáo các trường hợp tương tự. Carayon, Languillon, Bourrel và Basset tiến hành chụp X quang hệ thốngtrên một nhóm 30 bệnh nhân phong (60 chân): 35 chân không có biểu hiện bất kỳtổn thương loét hoặc xuyên thủng nào ở lòng bàn chân; 25 chân biểu hiện một tổnthương thủng ở lòng bàn chân, viêm xương-tủy xương tăng lên gấp 14 lần. Khám nghiệm X quang 29 chân, chúng tôi thấy các tổn thương sau: dạngtiêu xương (mất calcium lan tỏa kết hợp với các tổn thương loãng xương ở bànchân) và dạng tái tạo. ...

Tài liệu được xem nhiều: