Danh mục

Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 356.05 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết tập trung phân tích cơ chế lãi suất đặt trong khuôn khổ chung của chính sách tiền tệ (CSTT), được phân loại dựa trên mục tiêu của CSTT theo định nghĩa của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2016.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Tổng quan về cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia Bùi Quốc Dũng Phạm Vũ Thăng Long Ngày nhận: 01/11/2017 Ngày nhận bản sửa: 03/11/2017 Ngày duyệt đăng: 10/11/2017 Trong bài viết này, nhóm tác giả trình bày về kinh nghiệm điều hành lãi suất của một số quốc gia điển hình, là ngân hàng trung ương (NHTW) các quốc gia có cơ chế điều hành lãi suất tiên tiến nhất trên thế giới, hoặc có quan hệ thương mại chính với Việt Nam, hoặc trong cùng khu vực châu Á hoặc ASEAN có điều kiện địa lý hoặc chính trị tương đồng. Bài viết tập trung phân tích cơ chế lãi suất đặt trong khuôn khổ chung của chính sách tiền tệ (CSTT), được phân loại dựa trên mục tiêu của CSTT theo định nghĩa của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2016. Cụ thể, cơ chế lãi suất của NHTW các quốc gia Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, Hàn Quốc, Thụy Điển và Mỹ trong khuôn khổ CSTT dựa vào neo tỷ giá, tổng cung tiền mục tiêu, lạm phát mục tiêu hoặc đa mục tiêu, tùy theo điều kiện phát triển để đảm bảo tối ưu hóa được các mục đích trong bộ ba tam giác bất khả thi (lãi suất, tỷ giá, và dòng vốn) tại NHTW các nước này. Kinh nghiệm của các NHTW những nước này sẽ là bài học giá trị để Việt Nam thao khảo, vận dụng trong xây dựng, điều hành CSTT quốc gia. Từ khóa: Cơ chế điều hành lãi suất, cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ 1. Giới thiệu rong khung khổ CSTT, NHTW sử dụng các công cụ © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X CSTT (phương tiện thanh khoản, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…) để đạt được mục tiêu hoạt động, từ đó hướng tới mục tiêu trung 71 gian và cuối cùng là mục tiêu của CSTT là ổn định giá cả (lạm phát), tăng trưởng GDP. Cụ thể, từ mục tiêu trung gian (bao gồm ba loại hình chính theo phân loại của IMF là mục tiêu tỷ giá, mục tiêu tiền tệ và mục tiêu lạm phát), NHTW sẽ thiết lập mục tiêu hoạt động của CSTT, tương ứng với mục tiêu trung gian, thường là thông qua những công cụ/ biến số CSTT mà NHTW có thể tác động mạnh và tức thì để nhằm qua đó đạt được mục tiêu trung gian. Mục tiêu hoạt động được chia làm hai loại chính, mục tiêu dựa vào giá (thông qua công cụ lãi suất qua đêm và ngắn hạn khác), mục tiêu dựa vào khối lượng tiền tệ. Theo Andrea (2001), mục tiêu hoạt động dựa vào giá (thông qua lãi suất ngắn hạn) có thể được sử dụng cho bất cứ mục tiêu trung gian nào, tuy nhiên, mục tiêu hoạt động dựa trên khối lượng chỉ phù hợp cho mục tiêu trung gian là tiền tệ, và trong một số trường hợp, là mục tiêu tỷ giá. Nghiên cứu của Ho (2008) Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 186- Tháng 11. 2017 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ cho 17 NHTW các quốc gia được cho là có tính đại diện cao (bao gồm các nước phát triển, mới nổi, đang phát triển và trải đều ở các châu lục) cho thấy trừ các nước có độ mở kinh tế rất lớn, không kiểm soát dòng vốn (Hong Kong, Macao, Singapore) và áp dụng CSTT theo mục tiêu tỷ giá (do đó không thể áp đặt các mục tiêu lãi suất một cách độc lập), thì ở các nước còn lại, bất kể mục tiêu hoạt động là gì, đều sử dụng mục tiêu hoạt động dựa vào giá (lãi suất). Ngay cả Trung Quốc đang kết hợp cả mục tiêu hoạt động theo giá và lượng, thì các công cụ điều hành lãi suất ngày càng trở nên quan trọng. 2. Vai trò của việc lựa chọn mục tiêu trung gian trong việc quyết định mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ Dưới khung khổ tỷ giá mục tiêu và tài khoản vốn mở (ví dụ như Singapore), lãi suất được điều chỉnh để duy trì neo tỷ giá, hoặc khi NHTW thực hiện chính sách can thiệp không trung hòa (làm thay đổi cung tiền). Dưới khung khổ mục tiêu tiền tệ, mục tiêu hoạt động dựa theo khối lượng tiền tệ là lựa chọn phù hợp đối với các quốc gia có thị trường tiền tệ còn kém phát triển và NHTW không có các công cụ lãi suất mục tiêu, và trong trường hợp lạm phát cao, sự liên kết giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát là gần và nhanh chóng hơn. Do nguồn tạo tiền là từ tăng trưởng tín dụng của 72 Số 186- Tháng 11. 2017 NHTW cho chính phủ hoặc khu vực ngân hàng, việc kiểm soát lạm phát yêu cầu giảm tăng trưởng tiền cơ sở. Mục tiêu hoạt động dựa vào giá (lãi suất ngắn hạn) được lựa chọn khi hệ số nhân tiền dao động mạnh và làm suy yếu mối liên hệ giữa tiền cơ sở và tổng cung tiền. Một số quốc gia khi chuyển đổi từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, NHTW sử dụng đồng thời khung khổ mục tiêu tỷ giá và tiền tệ. Khi sự quan tâm của CSTT là mục tiêu tỷ giá, mục tiêu hoạt động phù hợp nhất là lãi suất ngắn hạn; khi biên độ tỷ giá được nới rộng và sự quan tâm hướng về tổng cung tiền, NHTW có thể cân nhắc sử dụng khối lượng tiền tệ mục tiêu. Tuy nhiên, nếu các công cụ CSTT có thể kiểm soát được lãi suất ngắn hạn và thị trường tiền tệ phát triển, sẽ không có lý do gì để NHTW quay trở lại sử dụng mục tiêu hoạt động dựa trên khối lượng. Dưới khung khổ mục tiêu lạm phát, mục tiêu hoạt động dựa vào giá (lãi suất ngắn hạn) là lựa chọn tối ưu. 3. Cơ chế điều hành lãi suất tại một số quốc gia điển hình 3.1. Ngân hàng trung ương Singapore (MAS) Kể từ năm 1981, CSTT của Singapore tập trung vào quản lý tỷ giá. Mục tiêu hàng đầu của CSTT của MAS là ổn định giá cả, làm nền tảng cho tăng trưởng bền vững. Theo MAS, mục tiêu tỷ giá cho thấy là một công cụ trung gian lý tưởng của CSTT, trong bối cảnh một nền kinh tế nhỏ và mở như Singapore. Mục tiêu này có thể được kiểm soát bằng cách can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối và có một mối quan hệ ổn định và dự báo được giữa mục tiêu tỷ giá với ổn định giá cả (lạm phát), là mục tiêu cuối cùng của CSTT trong trung hạn. Do MAS không kiểm soát mục tiêu lãi suất, lãi suất cho vay và tiền gửi đối với phương tiện hỗ trợ thanh khoản (Standing facility) của MAS được quyết định bởi thị trường. Cụ thể, lãi suất tham chiếu là lãi suất tiền gửi trung bình của các thành viên tạo lập thị trường chính (primary dealers) trên thị trường tiền tệ cho khoản tiền gửi 500 triệu SGD qua đêm. Để không khuyến khích các tổ c ...

Tài liệu được xem nhiều: