Thông tin tài liệu:
Tài liệu sẽ trình bày vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế, kết quả nghiên cứu những xu hướng trong hoạt động ngân hàng như: cạnh tranh, thay đổi công nghệ, quá trình hợp nhất ngân hàng, toàn cầu hóa, và cùng các nhà quản lý ngân hàng tìm kiếm giải pháp tồn tại và tiếp tục phát triển.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàngTổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàngTài liệu sẽ trình bày vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế, kết quả nghiên cứunhững xu hướng trong hoạt động ngân hàng như: cạnh tranh, thay đổi công nghệ, quátrình hợp nhất ngân hàng, toàn cầu hóa, và cùng các nhà quản lý ngân hàng tìm kiếmgiải pháp tồn tại và tiếp tục phát triển.Ngân hàng là gì?Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung vàđối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việcđịnh nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chứcnăng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉchức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranhchính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tàichính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán,quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụcủa ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổchức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng vềlĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tưvào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụngân hàng được ghi nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinhdoanh chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudentialnhảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân hàng phingân hàng”. Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chứcnào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằngcách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanhhay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chứcphi ngân hàng khác nhận định rằng họ có thể né tránh những quy định này và sẽ có thểcung cấp dịch vụ ngân hàng khác cho công chúng. Tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang(Fed), không muốn thấy sự xâm phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hànggiả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng làmột trong những hoạt động ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổchức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và các tổ chức tương tự trở thành cácngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ của Chính phủ.Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liênbang, buộc tội Fed đã vượt quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận nàyvà buộc Fed phải cho phép tồn tại hình thức “các ngân hàng phi ngân hàng” và cho họtham gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết này,hàng tá đơn xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp . E.F. Hutton,J.C.Penney và Sears Roebuck là những công ty cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầuđược tổ chức dưới dạng ngân hàng phi ngân hàng. Hơn thế, các công ty sở hữu ngânhàng lớn của Citicorp và Chase Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngânhàng” của riêng họ bởi vì với loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự doqua biên giới bang. Năm 1987, Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàngphi ngân hàng” bằng cách ràng buộc các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân hàng vàonhững quy định tương tự như các tổ chức ngân hàng truyền thống. Cuối cùng, Quốchội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa ra một định nghĩa mang tính pháp lývề ngân hàng: ngân hàng được định nghĩa như một công ty là thành viên của Công tyBảo hiểm tiền gửi Liên bang. Đây thật là một sự thay đổi thông minh vì theo luật hiệnhành của Mỹ, người ta không các định ngân hàng trên cơ sở những hoạt động của nómà trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi của nó.Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991, chính quyền của tổng thống George Bush đềnghị cho phép các ngân hàng với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàngloạt những dịch vụ mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanhchứng khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công nghiệp sởhữu các công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này có thể điều hànhnganhangf và các công ty bảo hiểm); cho phép các công ty ngân hàng đầu tư vào nhữngngành công nghiệp phi tài chính trên cơ sở một số điều kiện ràng buộc. Do đó, cáchàng rào pháp lý có tính lịch sử ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạtđộng kinh doanh khác – điều đã tồn tại qua nhiều thế hệ - đang bị tấn công và có thểsẽ sớm đưa đến một sự thay đổi lớn lao trong việc định nghĩa ngân hàng là gì và nócung cấp những dịch vụ gì.Kết qủa của tất cả những thay đổi về pháp lý dẫn đến tình trạng có sự nhầm lẫntrong công chúng khi phân biệt ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Cách tiếpcận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loạihình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấpmột danh mục và dịch vụ tài chính đa hạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm vàdịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức nằng tài chính nhất so với bất kỳ một tổchức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng củangân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financialdepartment stores) và người ta bắt đầu thấy xuất hiện các khẩu hiệu quản cáo tươngtự như: Ngân hàng của bạn – Một tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ dịch vụ (YourBank – a full service Financial institution) (xem Sơ đồ 1 - 1)Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay:Các dịch vụ ngân hàng:Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp cácdịch vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng ...