Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 120.78 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trần Nghệ Tông (1370-1372)Niên hiệu: Thiệu Khánh Cung Tĩnh Vương sinh năm ất Sửu (1324), do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lên ngôi năm Canh Tuất (1370). Nghệ Tông lên vua chưa được bao lâu đã phải lao đao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lệ bị giết, mẹ Nhật Lệ chạy vào Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Ðại Việt. Quân Chiêm vượt bể vào cửa Ðại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không chống nổi, phải bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Ðông Ngàn (Ðình Bảng, Bắc Ninh)...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trần Nghệ Tông (1370-1372) Trần Nghệ Tông (1370-1372)Niên hiệu: Thiệu KhánhCung Tĩnh Vương sinh năm ất Sửu (1324), do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lênngôi năm Canh Tuất (1370). Nghệ Tông lên vua chưa được bao lâu đã phải laođao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lệ bị giết, mẹ Nhật Lệ chạy vào ChiêmThành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Ðại Việt. Quân Chiêm vượt bểvào cửa Ðại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không chống nổi, phải bỏ kinhthành. Vua Nghệ Tông chạy sang Ðông Ngàn (Ðình Bảng, Bắc Ninh) lánh nạn.Quân Chiêm Thành vào thành đốt sạch cung điện bắt đàn bà con gái, lấy hết vàngbạc châu báu rồi rút quân về. Vua nhu nhược, bất lực không điều khiển nổi triềuchính phải trao cho Hồ Quý Ly nhiều quyền hành. Hồ Quý Ly có hai người cô lấyvua Minh Tông. Một người là Minh Từ hoàng hậu sinh ra vua Nghệ Tông, mộtngười là Ðôn từ hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông. Vì vậy, Nghệ Tông tin dùngphong Hồ Quý Ly làm khu Mật Ðại Sứ tại gia tước Trung Truyên Hầu.Năm Nhâm Tý (1372), Nghệ Tông truyên Ngôi cho em là Kính rồi về phủ TiênTrường làm Thái thượng hoàng.Trần Nghệ Tông là vị vua thứ tám triều TrầnTên thật là Trần Phủ, con thứ 3 của vua Minh Tông, sinh năm 1320. Qu ê hươngTức Mạc, Phủ Thiên Trường nay xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định.Khi Dương Nhật Lễ chiếm ngôi, ông chạy lên Đà Giang. Sau được tôn thất nhàTrần hợp lực giết chết Dương Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Trần Phủ về lập lênlàm vua năm 1370.Dẹp xong nội loạn, khôi phục lại cơ đồ nhà Trần. Tuy Trần Nghệ Tông là vuahiền, nhiều nhân đức nhưng lại thiếu bản lĩnh trị quốc, ít cương nghị, không quyếtđoán nên lũ gian thần trong triều ngấp nghé ngai vàng. Bên ngoài vua ChiêmThành là Chế Bồng Nga đem quân vượt biển tiến đánh kinh thành Thăng Long.Quân nhà Trần chủ quan, giữ không nổi. Vua Nghệ Tông Phải chạy lên Bắc Ninhlánh nạn. Quân Chiêm Thành vào Thăng Long đốt phá sạch cung đình, cướp hếtvàng bạc châu báu, bắt đàn bà, con gái rồi rút về nước.Ngày 9 tháng 11 năm 1372 Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính lui vềThiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.Vua mất năm 1394, làm vua được 27 năm, thọ 74 tuổiTrần Dụê Tông (1372 – 1377)TRẦN DUỆ TÔNG (1372 – 1377)Niên hiệu: Long Khánh1. VIỆC CHÍNH TRỊ. Thái tử Kính lên ngôi, tức là vua Duệ Tông, lập Lê thị làmhoàng hậu (Lê thị là em họ Quý Ly).Duệ Tông có tính quyết đoán hơn Nghệ Tông, nhưng quyền bính vẫn ở trong tayNghệ Tông Thượng hoàng cả.Bấy giờ quân Chiêm Thành cứ sang quấy nhiễu mãi, vua Duệ Tông quyết ý điđánh báo thù, bèn hạ chiếu luyện tập quân lính, làm chiến thuyền, và tích lươngthảo để phòng việc chinh chiến, rồi đặt thêm quân hiệu, cho Quý Ly làm thammưu quân sự; đổi đất Hoan Châu làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn Châu lộ,Lâm Bình phủ làm Tân Bình phủ, rồi sai quan bắt dân sửa sang đường sá tự CửuChân (Thanh Hóa) cho đến huyện Hà Hoa (tức là huyện Kỳ Anh bây giờ).2. THI CỬ. Tuy bấy giờ việc võ bị nhiều, nhưng cũng không quên việc văn học;năm Giáp Dần (1374) mở khoa thi tiến sĩ, lấy hơn 50 người cho áo mũ vinh quy.Trước vẫn có thi thái học sinh, đến bấy giờ mới đổi ra là thi tiến sĩ.3. VIỆC ĐÁNH CHIÊM THÀNH. Năm Bính Thìn (1376) quân Chiêm lại sangphá ở Hóa Châu. Duệ Tông định thân chinh đi đánh. Đình thần can không được.Sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, vận tải 5 vạn thạch lương vào Hóa Châu, rồirước Thượng hoàng lên duyệt binh ở Bạch Hạc. Nhân năm ấy vua Chiêm Thành làChế Bồng Nga đem sang cống 15 mâm vàng, quan trấn thủ Hóa Châu tên là ĐỗTử Bình lấy đi, rồi dâng sớ về nói dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin vuacử binh sang đánh. Được tin ấy, Duệ Tông quyết ý đi đánh; sai Quý Ly đốc vậnlương thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình) và tự lĩnh12 vạn quân, cả thủy bộ cùng tiến; đi đến cửa bể Nhật Lệ (ở làng Đồng Hới, huyệnPhong Lộc, Quảng Bình) đóng lại một tháng để luyện tập sĩ tốt.Qua tháng Giêng năm Đinh Tị (1377) mới tiến quân vào cửa Thị Nại (tức là cửaQuy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi kéo quân đến đánhthành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành(1).Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, rồi cho người sang giả hàng nói rằngChế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn rồi, chỉ còn có thành không mà thôi, xin tiếnbinh sang ngay. Duệ Tông lấy điều ấy làm thật, hạ lệnh truyền tiến binh vào thành.Đại tướng là Đỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân gần đến thành Đồ Bàn, quảnhiên bị quân Chiêm đổ ra vây đánh. Quan quân thua to; Duệ Tông chết ở trận,tướng sĩ quân lính mười phần chết đến bảy tám.Bấy giờ Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân không đem binh lên cứu, Lê Quý Ly cũng bỏchạy về. Thế mà khi hai người về kinh, Nghệ Tông Thượng hoàng chỉ giáng ĐỗTử Bình xuống làm lính mà thôi.* Chú thích:(1) Thành Đồ Bàn bây giờ hãy còn di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Hòa.Trần Duệ Tông là vua thứ 9 triều TrầnTên thật là Trần Kính, con thứ 11 của vua Minh Tông, em Nghệ Tông, sinh ngày 2tháng 6 năm Đinh Sửu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trần Nghệ Tông (1370-1372) Trần Nghệ Tông (1370-1372)Niên hiệu: Thiệu KhánhCung Tĩnh Vương sinh năm ất Sửu (1324), do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lênngôi năm Canh Tuất (1370). Nghệ Tông lên vua chưa được bao lâu đã phải laođao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lệ bị giết, mẹ Nhật Lệ chạy vào ChiêmThành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Ðại Việt. Quân Chiêm vượt bểvào cửa Ðại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không chống nổi, phải bỏ kinhthành. Vua Nghệ Tông chạy sang Ðông Ngàn (Ðình Bảng, Bắc Ninh) lánh nạn.Quân Chiêm Thành vào thành đốt sạch cung điện bắt đàn bà con gái, lấy hết vàngbạc châu báu rồi rút quân về. Vua nhu nhược, bất lực không điều khiển nổi triềuchính phải trao cho Hồ Quý Ly nhiều quyền hành. Hồ Quý Ly có hai người cô lấyvua Minh Tông. Một người là Minh Từ hoàng hậu sinh ra vua Nghệ Tông, mộtngười là Ðôn từ hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông. Vì vậy, Nghệ Tông tin dùngphong Hồ Quý Ly làm khu Mật Ðại Sứ tại gia tước Trung Truyên Hầu.Năm Nhâm Tý (1372), Nghệ Tông truyên Ngôi cho em là Kính rồi về phủ TiênTrường làm Thái thượng hoàng.Trần Nghệ Tông là vị vua thứ tám triều TrầnTên thật là Trần Phủ, con thứ 3 của vua Minh Tông, sinh năm 1320. Qu ê hươngTức Mạc, Phủ Thiên Trường nay xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định.Khi Dương Nhật Lễ chiếm ngôi, ông chạy lên Đà Giang. Sau được tôn thất nhàTrần hợp lực giết chết Dương Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Trần Phủ về lập lênlàm vua năm 1370.Dẹp xong nội loạn, khôi phục lại cơ đồ nhà Trần. Tuy Trần Nghệ Tông là vuahiền, nhiều nhân đức nhưng lại thiếu bản lĩnh trị quốc, ít cương nghị, không quyếtđoán nên lũ gian thần trong triều ngấp nghé ngai vàng. Bên ngoài vua ChiêmThành là Chế Bồng Nga đem quân vượt biển tiến đánh kinh thành Thăng Long.Quân nhà Trần chủ quan, giữ không nổi. Vua Nghệ Tông Phải chạy lên Bắc Ninhlánh nạn. Quân Chiêm Thành vào Thăng Long đốt phá sạch cung đình, cướp hếtvàng bạc châu báu, bắt đàn bà, con gái rồi rút về nước.Ngày 9 tháng 11 năm 1372 Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính lui vềThiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.Vua mất năm 1394, làm vua được 27 năm, thọ 74 tuổiTrần Dụê Tông (1372 – 1377)TRẦN DUỆ TÔNG (1372 – 1377)Niên hiệu: Long Khánh1. VIỆC CHÍNH TRỊ. Thái tử Kính lên ngôi, tức là vua Duệ Tông, lập Lê thị làmhoàng hậu (Lê thị là em họ Quý Ly).Duệ Tông có tính quyết đoán hơn Nghệ Tông, nhưng quyền bính vẫn ở trong tayNghệ Tông Thượng hoàng cả.Bấy giờ quân Chiêm Thành cứ sang quấy nhiễu mãi, vua Duệ Tông quyết ý điđánh báo thù, bèn hạ chiếu luyện tập quân lính, làm chiến thuyền, và tích lươngthảo để phòng việc chinh chiến, rồi đặt thêm quân hiệu, cho Quý Ly làm thammưu quân sự; đổi đất Hoan Châu làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn Châu lộ,Lâm Bình phủ làm Tân Bình phủ, rồi sai quan bắt dân sửa sang đường sá tự CửuChân (Thanh Hóa) cho đến huyện Hà Hoa (tức là huyện Kỳ Anh bây giờ).2. THI CỬ. Tuy bấy giờ việc võ bị nhiều, nhưng cũng không quên việc văn học;năm Giáp Dần (1374) mở khoa thi tiến sĩ, lấy hơn 50 người cho áo mũ vinh quy.Trước vẫn có thi thái học sinh, đến bấy giờ mới đổi ra là thi tiến sĩ.3. VIỆC ĐÁNH CHIÊM THÀNH. Năm Bính Thìn (1376) quân Chiêm lại sangphá ở Hóa Châu. Duệ Tông định thân chinh đi đánh. Đình thần can không được.Sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, vận tải 5 vạn thạch lương vào Hóa Châu, rồirước Thượng hoàng lên duyệt binh ở Bạch Hạc. Nhân năm ấy vua Chiêm Thành làChế Bồng Nga đem sang cống 15 mâm vàng, quan trấn thủ Hóa Châu tên là ĐỗTử Bình lấy đi, rồi dâng sớ về nói dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin vuacử binh sang đánh. Được tin ấy, Duệ Tông quyết ý đi đánh; sai Quý Ly đốc vậnlương thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình) và tự lĩnh12 vạn quân, cả thủy bộ cùng tiến; đi đến cửa bể Nhật Lệ (ở làng Đồng Hới, huyệnPhong Lộc, Quảng Bình) đóng lại một tháng để luyện tập sĩ tốt.Qua tháng Giêng năm Đinh Tị (1377) mới tiến quân vào cửa Thị Nại (tức là cửaQuy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi kéo quân đến đánhthành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành(1).Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, rồi cho người sang giả hàng nói rằngChế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn rồi, chỉ còn có thành không mà thôi, xin tiếnbinh sang ngay. Duệ Tông lấy điều ấy làm thật, hạ lệnh truyền tiến binh vào thành.Đại tướng là Đỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân gần đến thành Đồ Bàn, quảnhiên bị quân Chiêm đổ ra vây đánh. Quan quân thua to; Duệ Tông chết ở trận,tướng sĩ quân lính mười phần chết đến bảy tám.Bấy giờ Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân không đem binh lên cứu, Lê Quý Ly cũng bỏchạy về. Thế mà khi hai người về kinh, Nghệ Tông Thượng hoàng chỉ giáng ĐỗTử Bình xuống làm lính mà thôi.* Chú thích:(1) Thành Đồ Bàn bây giờ hãy còn di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Hòa.Trần Duệ Tông là vua thứ 9 triều TrầnTên thật là Trần Kính, con thứ 11 của vua Minh Tông, em Nghệ Tông, sinh ngày 2tháng 6 năm Đinh Sửu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử Việt Nam triều đại phong kiến việt nam các vị vua việt nam lịch sử dựng nước việt nam chuyện về các ông Hoàng đất việtTài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 147 0 0 -
69 trang 87 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 60 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 58 0 0 -
11 trang 52 0 0
-
Công tác công văn, giấy tờ thời phong kiến Việt Nam: Phần 1
98 trang 50 1 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0 -
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 43 0 0 -
26 trang 42 0 0